* Thưa Bộ trưởng, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về việc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ trong tháng đầu tiên của năm 2021?
Trong tháng đầu tiên của năm 2021, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì đà phục hồi. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động thương mại, tiêu dùng được thúc đẩy do nhu cầu mua sắm, chuẩn bị Tết của người dân. Dù phải chịu áp lực tăng giá do nhu cầu gia tăng và giá dầu thế giới phục hồi, lạm phát vẫn được kiểm soát. Xuất siêu tiếp tục là điểm sáng với động lực xuất khẩu từ ngành chế biến, chế tạo.
Mặc dù vậy, dịch Covid-19 xuất hiện trở lại trong cộng đồng với biến chủng mới có tốc độ lây lan nhanh. Bên cạnh đó, tác động của dịch bệnh tới nền kinh tế vẫn còn dai dẳng, phản ánh qua việc số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường còn cao, thu hút nguồn vốn FDI suy giảm và khu vực dịch vụ, du lịch phục hồi chậm. Dự báo dịch bệnh sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế trong cả ngắn và dài hạn. Rủi ro còn đến từ biến động chính trị, căng thẳng thương mại và tình hình nợ công trên thế giới, đòi hỏi Việt Nam cần chủ động có những giải pháp quyết liệt để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đề ra.
* Sự quay trở lại của dịch Covid-19 đe dọa như thế nào tăng trưởng GDP quý I và cả năm 2021, thưa Bộ trưởng?
Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ đã xây dựng các kịch bản tăng trưởng đối với từng quý và từng ngành. Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, Bộ KH&ĐT đã dự báo: Trường hợp dịch Covid-19 được khống chế kịp thời trong quý I, ước tính GDP quý I/2021 tăng 4,46%, thấp hơn 0,66 điểm phần trăm so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 01/NQ-CP. Với mức suy giảm trên, nếu hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng của các quý sau theo Nghị quyết 01/NQ-CP, tăng trưởng cả năm ước đạt 6,37%, đạt mục tiêu tăng trưởng của Quốc hội (6%) nhưng thấp hơn mục tiêu tăng trưởng tại Nghị quyết 01/NQ-CP (6,5%).
Sự quay trở lại của dịch Covid-19 đe dọa đến mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021. |
Còn để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% thì quý II cần đạt mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 01/NQ-CP với tăng trưởng 7,11% và quý III, quý IV phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn so với Nghị quyết 01/NQ-CP. Theo đó, quý III tăng 6,73% (cao hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,02 điểm phần trăm) và quý IV tăng 7,04% (cao hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,37 điểm phần trăm).
* Năm 2020 chúng ta đã quyết liệt thực hiện “nhiệm vụ kép”, vậy tiếp theo trong năm 2021 này chúng ta triển khai nhiệm vụ này như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Ưu tiên hàng đầu hiện nay là tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh để bảo đảm sức khỏe của người dân, hạn chế tối đa tác động đến nền kinh tế.
Cùng với đó, khẩn trương, quyết liệt triển khai thực hiện ngay Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và phấn đấu đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và 5 năm 2021-2025.
Trước mắt, 6 tháng đầu năm, các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương, quyết liệt triển khai các chương trình hành động thực hiện nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 01/NQ-CP, đặc biệt là các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua “cỗ xe tam mã” gồm đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của các hiệp định FTA đã ký kết; Hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường và đổi mới sáng tạo là tiêu chí đánh giá chủ yếu; Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán…
* Bộ trưởng có thể nói rõ hơn các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua “cỗ xe tam mã”?
Trước hết, cần tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng hợp lý để ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể, cần triệt để tiết kiệm các khoản chi chưa thật cần thiết, nhất là chi thường xuyên, giảm tối đa kinh phí hội nghị, công tác; tập trung nguồn lực cho các hoạt động chống dịch và đầu tư phát triển; Duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Đánh giá kỹ dư địa của chính sách tiền tệ, tài khóa để xây dựng các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng còn gặp khó khăn do tác động bởi dịch Covid-19, đặc biệt là ngành dịch vụ, du lịch, vận tải. Theo dõi sát tình hình trong nước và quốc tế để kịp thời nắm bắt thông tin, chủ động phân tích, dự báo và xây dựng các kịch bản, biện pháp để ứng phó hiệu quả những biến động và vấn đề phát sinh.
Thứ hai, tập trung, chú trọng phát triển thị trường trong nước theo chiều sâu, cải thiện môi trường kinh doanh và bảo đảm lao động
Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu, triển khai các chính sách kích thích tiêu dùng trong nước; nâng cao tính kết nối giữa sản xuất với thị trường theo chuỗi cung ứng, xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam, đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để tạo đầu ra bền vững cho các doanh nghiệp sản xuất.
Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi để phát triển thương mại điện tử, ứng dụng thanh toán điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường đầu ra qua hình thức thương mại điện tử xuyên biên giới; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0 để thúc đẩy quản lý theo chuỗi, tạo điều kiện thuận lợi truy xuất nguồn gốc.
Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi. Thực hiện đầy đủ, nhất quán và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết 02/NQ-CP. Rà soát sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật; tập trung tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp phát sinh từ cơ chế, chính sách để giải phóng các nguồn lực cho phát triển.
Bộ LĐ TB&XH phối hợp với các địa phương theo dõi, nắm bắt tình hình lao động, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, trước, trong và sau Tết Nguyên đán; kịp thời có phương án hỗ trợ khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động sau Tết; tiếp tục theo dõi, đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến người lao động và cập nhật tình hình, nhu cầu lao động nước ngoài.
Tăng cường sự độc lập, năng lực tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh, tình hình mới. |
Thứ ba, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN), thu hút vốn đầu tư xã hội, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Theo đó các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương tập trung thực hiện nghiêm các giải pháp về giải ngân vốn đầu tư công đã đề ra tại các Nghị quyết của Chính phủ, trong đó: Phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư NSNN ngay từ đầu năm kế hoạch cho các dự án đã đủ thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giải ngân; Chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, thủ tục đấu thầu; Chủ động xây dựng ngay kế hoạch giải ngân theo từng tháng, từng Quý; Phân công lãnh đạo chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ thực hiện và giải ngân của từng dự án, gắn trách nhiệm của Lãnh đạo, tổ chức, cá nhân với kết quả giải ngân của từng dự án được phân công.
Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc căn cứ mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thông qua để tập trung lựa chọn danh mục dự án dự kiến triển khai trong giai đoạn 2021-2025, sớm hoàn thiện thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, tổng hợp vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV theo đúng quy định Luật Đầu tư công.
Chuẩn bị thủ tục phê duyệt Quyết định đầu tư, dự toán, thiết kế… của các dự án, công trình lớn, trọng yếu, có tác động lan tỏa, đặc biệt là hạ tầng giao thông và năng lượng. Tạo điều kiện để có thể triển khai được ngay sau khi kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2021-2025 được thông qua.
Đổi mới công tác quản lý, giải ngân và sử dụng vốn ODA, xác định thứ tự ưu tiên các dự án gắn liền với bảo đảm nguồn vốn đối ứng. Đẩy mạnh các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư để khơi thông vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, đặc biệt cho các dự án hạ tầng giao thông. Khẩn trương thực hiện việc lập, phê duyệt các quy hoạch. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ quy hoạch phát triển giữa các ngành và giữa ngành với quy hoạch tổng thể…
* Về các giải pháp tăng cường sự độc lập, năng lực tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh, tình hình mới có những lưu ý gì, thưa Bộ trưởng?
Bối cảnh Covid-19 cùng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang tạo ra những thay đổi lớn về kinh tế, chính trị, thương mại trên thế giới. Để thích ứng và phát triển trong tình hình mới, nhiều quốc gia đã và đang đề ra chiến lược, chính sách mới trong đó tập trung vào phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ… như chiến lược “vòng tuần hoàn kép” của Trung Quốc, chính sách “tăng trưởng xanh” của Hàn Quốc...
Do vậy, Việt Nam cần tăng cường nghiên cứu, theo dõi, cập nhật các xu thế, mô hình mới, chính sách của các nước có tác động lớn đến nước ta; tập trung nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ và sức chống chịu của nền kinh tế. Bộ KH&ĐT đang khẩn trương hoàn thiện Đề án nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế, trong đó bao gồm nhiều nội dung, giải pháp tương đồng với các nội dung trên. Bộ sẽ phối hợp các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu các mô hình mới và chiến lược của các quốc gia khác để báo cáo Chính phủ cùng với các nội dung của Đề án trong thời gian tới.
* Xin trân trọng cám ơn Bộ trưởng!