Để giao thông công cộng “thân thiện” hơn với người khuyết tật

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận giao thông công cộng của người khuyết tật, đáp ứng nhu cầu hòa nhập xã hội, cộng đồng của họ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phần lớn người khuyết tật hiện vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các công trình hoặc phương tiện giao thông công cộng.
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Đã có luật, quy định, quy chuẩn

Theo kết quả Điều tra Quốc gia về người khuyết tật (NKT) tại Việt Nam lần đầu tiên do Tổng cục Thống kê và UNICEF thực hiện, tính tới cuối năm 2016, khoảng hơn 7% dân số từ 2 tuổi trở lên là NKT, tương đương với khoảng hơn 6,2 triệu người. Theo đó, thực trạng nhiều công trình giao thông không hỗ trợ NKT, hay nơi làm việc không có lối đi cho NKT, là một trong những nguyên nhân khiến NKT không tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc y tế hay tìm kiếm việc làm.

Trong nhiều năm qua, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chuẩn nhằm tăng cường khả năng tiếp cận với hệ thống giao thông, đặc biệt là giao thông công cộng đối với NKT. Trong đó có bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn công trình công cộng nhằm đảm bảo cho NKT có thể dễ dàng di chuyển và hoà nhập với cộng đồng trong các văn bản như: Luật Người khuyết tật năm 2010; Quyết định số 1019/QĐ-TTg năm 2012 về phê duyệt Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2012 – 2020; Quyết định số 1190/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021 -2030; Thông tư số 39/2012/TT-BGTVT…

Với ngành Giao thông, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam có các hạng mục liên quan đến điều kiện NKT tiếp cận sử dụng. Các luật chuyên ngành, nghị định, thông tư hướng dẫn trong các lĩnh vực đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng không, hàng hải cũng lồng ghép các điều khoản đảm bảo phát triển giao thông tiếp cận để hỗ trợ những đối tượng yếu thế như NKT, người cao tuổi,…

Đồng thời, Bộ GTVT chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tiếp tục triển khai thực hiện các quy định của Luật NKT, Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền của NKT; xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Quyết định số 1190/QĐ-TTg về Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021 - 2030 trong lĩnh vực GTVT.

Thực tế triển khai còn nhiều hạn chế

Trong Báo cáo Đánh giá khả năng tiếp cận công trình giao thông của NKT được khảo sát 19 công trình giao thông tại Hà Nội và Quảng Ngãi mới đây cho thấy, có khoảng 50% công trình khảo sát đã tính đến đến khả năng tiếp cận đối với NKT. Các công trình giao thông trọng điểm của Hà Nội như hệ thống BRT, Ga Hà Nội, Đường sắt Cát Linh đã đáp ứng được từ 50% yêu cầu của QCVN 10:2014/BXD. Riêng đường sắt Cát Linh đã đáp ứng được 90% QCVN 10:2014/BXD. Nhiều công trình của doanh nghiệp tư nhân cũng đã đáp ứng các quy chuẩn về giao thông tiếp cận với NKT.

Như vậy, những kết quả đáng ghi nhận nêu trên là minh chứng cho thấy hoạt động trợ giúp NKT trong lĩnh vực GTVT đã thu hút sự quan tâm, nguồn lực của các cấp, ngành từ Trung ương tới địa phương, các tổ chức doanh nghiệp vận tải, cá nhân và cộng đồng dân cư. Dù vậy, trên thực tế, NKT vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với phần lớn hệ thống giao thông công cộng.

Đơn cử, trong lĩnh vực đường bộ, đa số các đơn vị vận tải trên địa bàn các tỉnh, thành phố chưa chú trọng đầu tư phương tiện có công cụ hỗ trợ cho NKT bởi chi phí cao hơn mà mức độ sử dụng còn thấp. Việc xây dựng hoặc cải tạo kết cấu hạ tầng giao thông và phương tiện để NKT dễ dàng tiếp cận cũng chưa được triển khai đồng bộ, chưa xây dựng được các tuyến phố, khu vực đường, các điểm dừng, nhà chờ xe buýt, vỉa hè… dành riêng hoặc đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cho NKT sử dụng.

Trong các lĩnh vực đường sắt, đường thủy nội địa, hàng không, hàng hải cũng ghi nhận còn nhiều bất cập trong việc xây dựng hạ tầng giao thông, phát triển phương tiện giao thông dễ tiếp cận với NKT, đặc biệt là các khó khăn về thiếu thốn nguồn lực.

Tóm lại, pháp luật hiện hành đã có những quy định cụ thể làm nguồn tham chiếu thúc đẩy một hệ thống giao thông công cộng “thân thiện” hơn với NKT. Tuy nhiên, việc thực thi một cách hiệu quả, đồng bộ các quy định này vẫn còn nhiều hạn chế trên thực tế. Bởi vậy, rất cần tới sự chung tay của các cấp, ngành, chính quyền địa phương và các bên liên quan nhằm xoá bỏ những rào cản tiếp cận giao thông của NKT, giúp họ tiếp cận được các dịch vụ xã hội, cơ hội việc làm, cũng như các cơ hội hoà nhập cộng đồng khác.

Theo thống kê của Bộ GTVT, trong giai đoạn 2012 - 2020, về hạ tầng giao thông, cơ bản các công trình nhà ga, bến xe, bến tàu được xây dựng mới đáp ứng quy chuẩn tiếp cận, có đường dốc, nhà vệ sinh, vị trí ghế ưu tiên tại phòng bán vé. Đối với các công trình giao thông cũ, ước tính có 30 - 40% được cải tạo đáp ứng các quy chuẩn về giao thông tiếp cận.

Về phương tiện giao thông, có 7/63 tỉnh, thành phố đã ban hành quy định cụ thể về tỷ lệ phương tiện vận tải hành khách đáp ứng nhu cầu đi lại của NKT. Cả nước đã có 478 xe buýt sàn thấp, chiếm 4,8% tổng số xe buýt, đảm bảo NKT có thể tiếp cận. Về tình hình miễn giảm giá vé tham gia giao thông đối với NKT, nhiều địa phương đã chủ động thực hiện các công tác tổ chức vận tải, hạ tầng giao thông, thiết bị phục vụ cho NKT, thực hiện miễn, giảm giá vé cho NKT.

Đọc thêm