Trong đó, EVN được đánh giá đã tổ chức vận hành các nhà máy thủy điện tối đa khả năng cho phép để tạo điều kiện thuận lợi cho các công trình thủy lợi vận hành lấy nước, đồng thời bảo đảm cung cấp đủ điện cho các trạm bơm hoạt động.
Theo Báo cáo, tổng lượng xả của các hồ chứa thủy điện cả 2 đợt là 3,62 tỷ m3, thấp hơn khoảng 1,14 tỷ m3 so với tổng lượng nước xả dự kiến của EVN. Riêng trong đợt 2, các nhà máy thủy điện đã vận hành tối đa công suất phát điện nên dòng chảy hệ thống sông Hồng được duy trì ở mức cao nhất theo khả năng; Mực nước trên hệ thống sông Hồng trong các đợt lấy nước cơ bản phù hợp với kịch bản tính toán, tạo điều kiện các công trình thủy lợi đã được sửa chữa, nâng cấp hạ thấp cao trình lấy nước, các trạm dã chiến và các cống lấy nước vùng triều có điều kiện vận hành tốt.
Đại diện EVN cho biết, để có được kết quả tích cực như trên, EVN và các đơn vị đã rất chủ động trong việc chuẩn bị triển khai thực hiện. Cụ thể, EVN đã xây dựng kế hoạch vận hành và xả nước từ các hồ thủy điện phía Bắc (gồm Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang) và kế hoạch đảm bảo điện phục vụ bơm nước gieo cấy.
Theo đó, EVN đã chỉ đạo Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia thực hiện điều tiết nước các hồ thủy điện và vận hành hệ thống hợp lý để đáp ứng nhu cầu nước và đảm bảo kế hoạch cung cấp điện, đồng thời điều tiết các hồ chứa duy trì mực nước tại Hà Nội ở mức hợp lý để tiết kiệm nguồn nước đảm bảo hiệu quả cao nhất của 2 đợt lấy nước tập trung và đảm bảo cung cấp điện mùa khô năm 2023 cho hệ thống điện Quốc gia.
Ngoài ra, EVN cũng đã yêu cầu các công ty điện lực rà soát, kiểm tra và chuẩn bị sẵn sàng để đảm bảo cung cấp điện ổn định, liên tục cho các trạm bơm điện trong suốt thời gian lấy nước tập trung (từ ngày 06/01/2023 đến 08/02/2023) và sau các đợt lấy nước để phục vụ bơm dẫn nước. Các trạm bơm được cung cấp điện ổn định, liên tục, không xảy ra sự cố lưới điện và các thiết bị cơ khí trong suốt thời gian lấy nước.