Gương sáng Pháp luật

Già làng Tráng Lao Lử: Thắp sáng ngọn lửa đoàn kết nơi biên cương

(PLVN) - Già làng Tráng Lao Lử vui với những chuyến đi cùng bộ đội biên phòng “nằm gai nếm mật” mai phục bắt gián điệp chống phá cách mạng; vượt núi băng rừng đi chữa bệnh cho bà con dân bản; làm người “đứng mũi chịu sào” hòa giải mâu thuẫn; vận động bà con xóa cây thuốc phiện, từ bỏ ma túy, bài trừ hủ tục lạc hậu…
Ông Lử bên tấm hình người cha là cụ Tráng Lao Khô.
Ông Lử bên tấm hình người cha là cụ Tráng Lao Khô.

“Sợi dây” đoàn kết trong khu vực

Dấu chân của già làng Tráng Lao Lử (SN 1940, dân tộc Mông, ở bản Lao Khô, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La) in trên khắp bản làng, con suối, đường đi nơi núi rừng vùng biên giới Lao Khô. Ông Nguyễn Quang Hưng, Trưởng phòng VH&TT Yên Châu cho biết, bản Lao Khô gắn liền với tên của cụ Tráng Lao Khô (dân tộc Mông, thân sinh của ông Tráng Lao Lử), người có mối thân tình đặc biệt với Chủ tịch nước CHDCND Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Thời kháng chiến chống Pháp, cụ Khô từng tham gia nuôi giấu, mang lương thực, thực phẩm cho cán bộ Việt Minh và cán bộ nước bạn Lào.

Trong ngôi nhà gỗ mái thấp truyền thống người Mông, xung quanh cây cối xum xuê, vườn đào, mận xanh mướt lấp ló bên triền đồi. Cảm nhận đầu tiên về ông Lử là sự gần gũi, thân thiện, phúc hậu, giọng nói dõng dạc. Năm nay đã ngoài 80 tuổi nhưng ông Lử vẫn rất khỏe mạnh, minh mẫn.

Từ những năm 1965, ông Lử tình nguyện tham gia dân quân tự vệ, hàng ngày cùng bộ đội Đồn Biên phòng Nà Đít (nay là Đồn Biên phòng Chiềng On) tham gia bảo vệ biên giới.

Rồi ông Lử được tham gia học lớp y tá tại huyện, về công tác tại Trạm Y tế xã Phiêng Khoài. Ngày ấy bản Lao Khô ở xa trung tâm xã, đường đi lại khó khăn, hệ thống điện, đường, trường, trạm chưa có. Lao Khô vẫn còn là vùng đất hoang vu, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn đủ bề.

Tuổi cao, ông Lử vẫn tích cực tham gia các công việc của bản, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách, pháp luật.

Tuổi cao, ông Lử vẫn tích cực tham gia các công việc của bản, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách, pháp luật.

Cuộc sống của người Mông ở nhiều bản làng vùng sâu, vùng xa, biên giới rất khó khăn, nhiều hủ tục lạc hậu ma chay, cúng bái… ăn sâu vào nếp sống, suy nghĩ. Muốn bà con thay đổi cuộc sống, thay đổi thói quen, không phải chuyện một sớm một chiều. Ông phải đến từng nhà tuyên truyền, vận động, thuyết phục, dân mới nghe, mới hiểu, tin và làm theo.

“Mưa dầm thấm lâu”, dần dần các hủ tục được đẩy lùi khỏi cộng đồng. Từ những kiến thức về chăm sóc sức khỏe được học, ông Lử vận động bà con ăn chín, uống sôi, nhà có người ốm phải đưa đến bệnh viện… làm thay đổi thói quen, nhận thức của đồng bào.

Có thời điểm ở bản Lao Khô nhiều nhà trồng cây thuốc phiện trên nương, trong bản xuất hiện nhiều người nghiện, kéo theo đó là nạn trộm cắp, gây mất an ninh trật tự. Trong vai trò người uy tín, ông Lử cùng cấp ủy, chính quyền địa phương xuống từng nhà vận động bà con từ bỏ cây thuốc phiện. Lao Khô trở thành điểm sáng về xóa cây thuốc phiện của tỉnh, đến nay Lao Khô không còn người nghiện ma túy.

Được tín nhiệm, năm 1971 ông Lử được bầu Phó Chủ tịch xã Phiêng Khoài, rồi Chủ tịch xã. Thời gian công tác, ông luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được ví như sợi dây đoàn kết trong khu vực.

Nay tuổi cao, ông vẫn tích cực tham gia các công việc của bản, bám bản, bám làng, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đoàn kết, xây dựng nếp sống văn minh, thi đua lao động sản xuất, vươn lên thoát nghèo.

Kinh nghiệm hòa giải “không để bé xé ra to”

Lật giở những bức ảnh, tấm bằng khen được Đảng và Nhà nước trao tặng, ông Lử xúc động nhớ lại một trong những câu chuyện đáng nhớ nhất thời gian mình công tác.

Đó là vào năm 1968, khi ông đang làm y tế xã, một gia đình người Mông ở bản Phiêng Sa (nước bạn Lào) có con dâu chuyển dạ chuẩn bị sinh, nhưng đau từ sáng đến tối chưa sinh được. Người Mông có tục khi đẻ thường gọi “thầy mo” đến cúng, tuy nhiên càng cúng tình hình càng xấu đi, nguy hiểm đến tính mạng. Thấy vậy, người nhà đến mời ông sang giúp.

Đến nơi, sau khi làm xong “công tác tư tưởng” cho gia đình, ông tiêm thuốc trợ tim rồi đỡ đẻ. Cả gia đình vỡ òa trong hạnh phúc khi thấy mẹ tròn con vuông. Tiếng lành đồn xa, sau lần đó nhiều người Mông bên nước Lào biết ông chữa được bệnh, thường xuyên đến nhờ. Cũng từ đó, tình đoàn kết giữa hai khu vực càng thêm khăng khít, bền chặt. Cứ vào ngày lễ, Tết, bà con hai bên lại sang thăm, quý nhau như người nhà.

Già làng Tráng Lao Lử được Đảng, Nhà nước tặng nhiều bằng khen như: Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba; Chủ tịch nước tặng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc; Thủ tướng tặng Bằng khen thành tích trong sản xuất kinh doanh; Ủy ban Dân tộc tặng Bằng khen người có uy tín; Chủ tịch tỉnh tặng Bằng khen vì có thành tích trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa…

Già làng Tráng Lao Lử được Đảng, Nhà nước tặng nhiều bằng khen như: Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba; Chủ tịch nước tặng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc; Thủ tướng tặng Bằng khen thành tích trong sản xuất kinh doanh; Ủy ban Dân tộc tặng Bằng khen người có uy tín; Chủ tịch tỉnh tặng Bằng khen vì có thành tích trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa…

Sống ở bản Lao Khô nhưng ông Lử còn được mời sang tận bản Pa Sang (xã Sặp Vạt, Yên Châu) để hòa giải việc một vài người Mông cùng bản mất đoàn kết xô xát với nhau, may nhờ có ông hoà giải kịp thời nên không xảy ra hậu quả. Lý do chỉ vì mê tín, thiếu hiểu biết, khi gia đình nọ có cháu bị thương ở chân, đi chữa trị về không khỏi rồi qua đời, nên nghi rằng có người “làm bùa đầu độc”. Rồi trong bản xảy ra mâu thuẫn, nghi kị, gây mất tình làng nghĩa xóm, mất an ninh trật tự.

Sau nhiều lần chính quyền địa phương hòa giải không thành, ông Lử được mời đến giải quyết. Đến nơi, ông mời các bên tập trung về một chỗ để giải thích, vận động, rằng vết thương nhiễm trùng không được chữa trị kịp thời nên mới dẫn đến sự việc đáng tiếc... Thấy ông phân tích hợp tình, hợp lý, các bên đã buông bỏ sự nghi ngờ, giận dữ; giảng hòa với nhau; hứa cùng nhau sống đoàn kết, làm ăn.

Còn có những việc như trong xã có hai gia đình lấn đất sản xuất của nhau khi canh tác trồng ngô dẫn đến xích mích, mâu thuẫn kéo dài. Ông Lử được được giao nhiệm vụ đứng ra hòa giải. Thông qua việc giải thích vận động, cuối cùng cả 2 gia đình đồng ý giảng hòa, từ đó đến nay sống hòa đồng, đoàn kết.

Ông Lử chia sẻ: “Để làm tốt việc hòa giải, mình phải là người am hiểu phong tục tập của dân bản quán và làm việc khách quan, cương quyết, không để những việc nhỏ hóa thành to. Qua những buổi hòa giải, kết hợp tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, quy ước, hương ước bản làng cho bà con hiểu và làm theo. Vì thế hầu như các cuộc hòa giải đều thành công, không để “chuyện bé xé ra to”, không để đơn thư vượt cấp”.

Ông Lử còn tiên phong trong vận động đồng bào xây dựng nếp sống văn hóa mới, chăm lo phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo. Bản Lao Khô ngày nay có 224 hộ dân tộc Mông, dù đời sống còn một số khó khăn nhưng người dân nơi đây đã biết chăm chỉ làm ăn, biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cuộc sống khấm khá hơn trước nhiều. Trong bản Lao Khô cũng không còn tình trạng du canh du cư, không có người nghiện, không để người chết nhiều ngày trong nhà…

Ở bản Lao Khô bây giờ, những câu chuyện hiếu học trong các gia đình không còn là hiếm. Người Mông nơi đây đã biết chăm lo việc ăn học của con em, khuyến khích con cái học hành, biết cái chữ để thoát nghèo, lạc hậu. Nhiều thanh niên trong bản thi đỗ các trường đại học, cao đẳng, ra trường công tác trong các cơ quan nhà nước rồi thành đạt. Có được những đổi thay đó, có một phần đóng góp của già làng Tráng Lao Lử.

Ông Lù Văn Cường, Chủ tịch UBND huyện Yên Châu cho biết, tại vùng biên giới Lao Khô, những tình cảm tốt đẹp nảy nở từ thế hệ cha ông đi trước giữa Việt Nam và Lào luôn được duy trì phát triển.

Năm 2013, UBND huyện Yên Châu (Sơn La) và huyện Xiềng Khọ (CHDCND Lào) đã tổ chức Lễ ký hoạt động “kết nghĩa” giữa bản Lao Khô và bản Nà Khạng (cụm Phiêng Sa, huyện Xiềng Khọ, tỉnh Hủa Phăn). Hai bên thống nhất phối hợp, thường xuyên giáo dục tuyên truyền cho quần chúng nhân dân về truyền thống đoàn kết gắn bó, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, giúp nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống, xây dựng khu vực biên giới hòa bình, ổn định, phát triển.

Đọc thêm