Hòa giải ở cơ sở kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ

(PLVN) - Sau hơn 7 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở (HGOCS) năm 2013, công tác HGOCS đã đạt được nhiều kết quả tích cực, kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ, giữ vững ổn định xã hội ở cơ sở. Đây chính là nội dung trao đổi của hai vị chuyên gia tham dự buổi tọa đàm về công tác này do Báo Pháp luật Việt Nam tổ chức chiều 28/12.

Hai vị chuyên gia là Uông Ngọc Thuẩn - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), Bộ Tư pháp và bà Phạm Thị Hồng - Phó Trưởng Ban Dân chủ và Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đạt được nhiều kết quả tích cực

* PV: Ngày 20/6/2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở.  Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Ông Uông Ngọc Thuẩn có thể chia sẻ những kết quả đạt được sau hơn 07 năm thi hành Luật?

+ Ông Uông Ngọc Thuẩn: Hòa giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản ở cộng đồng, đã tồn tại từ lâu đời và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Ngày nay, dưới tác động của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, hòa giải ở cơ sở vẫn là một nét văn hóa, một lựa chọn tối ưu trong giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng.

 Hai vị khách mời tham gia buổi tọa đàm.

Sau hơn 7 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở đã đạt được những kết quả sau:

- Về nhận thức, nhận thức của xã hội về công tác hòa giải ở cơ sở đã được nâng lên một tầm khác so với trước đây.

- Hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm, tạo điều kiện tốt cho tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được kiện toàn và phát triển, thể hiện ở các điểm sau:

+ Thể chế đầy đủ, hoàn thiện: Nghị định số 15/2014/NĐ-CP; Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN; Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP

+ Việc chỉ đạo, hướng dẫn triển khai hoạt động hòa giải được thực hiện thường xuyên, liên tục và phù hợp với tình hình thực tiễn.

+ Các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải cho hòa giải viên luôn được xây dựng, cập nhật nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu tìm hiểu kiến thức pháp luật, nâng cao kỹ năng hòa giải của các hòa giải viên.

- Đội ngũ công chức tham mưu quản lý nhà nước về hòa giải cơ sở, Tổ hòa giải ở cơ sở được kiện toàn và từng bước nâng cao chất lượng. Tính đến hết tháng 12/2019, trên toàn quốc có gần 97.000 tổ hòa giải với hơn 600.000 hòa giải viên. 

- Hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày càng được nâng cao hiệu quả, “không để đốm lửa nhỏ thành đám cháy lớn”, điều khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của tổ hòa giải trong ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tính từ năm 2014 đến năm 2019, hòa giải viên cả nước đã hòa giải thành 707.945 trên tổng 875.312 vụ việc tiến hành hòa giải (đạt tỷ lệ 80,9%). Năm 2019, một số tỉnh có tỷ lệ hòa giải thành cao như tỉnh An Giang (92,8%), tỉnh Long An (92,2%), tỉnh Khánh Hòa (92,2), tỉnh Sóc Trăng (91,2%) và tỉnh Vĩnh Long (91,8%)

 Ông Uông Ngọc Thuẩn.

- Các mô hình điểm, cách làm hay có hiệu quả trong công tác hòa giải ở cơ sở được quan tâm xây dựng. như: tỉnh Lạng Sơn xây dựng mô hình “Tổ hòa giải điển hình tiên tiến”; thành phố Hà Nội xây dựng mô hình “Tổ hòa giải 5 tốt”; tỉnh Đồng Tháp xây dựng mô hình “Câu lạc bộ hòa giải ở cơ sở”, tỉnh Quảng Bình mô hình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chứng kiến hoặc ký cam kết việc thỏa thuận hòa giải thành là đúng pháp luật...

* PV: Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò “nòng cốt” trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bà Hồng đánh giá như thế nào về kết quả, đóng góp của tổ chức Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở thời gian qua?

+ Bà Phạm Thị Hồng: Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết Trung ương 7/NQTW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị và các quy định của pháp luật về hoạt động hòa giải ở cơ sở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã chủ động phối hợp với ngành Tư pháp cùng cấp triển khai thực hiện thống nhất pháp luật về hòa giải ở cơ sở từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là ở địa bàn dân cư. Qua 7 năm phối hợp triển khai thực hiện bước đầu đã có những chuyển biến tích cực được thể hiện qua các mặt cơ bản sau:

- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã chủ động hướng dẫn, lồng ghép lồng ghép trong các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và phát động như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; cuộc vận động " Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; cuộc vận động “xây dựng gia đình văn hóa”; phong trào "Cả nước chung tay vì người nghèo"... Đây là những hoạt động rất sôi động, thiết thực đưa công tác hòa giải ở cơ sở đi vào cuộc sống một cách tự nhiên.

Bà Phạm Thị Hồng.

- Làm tốt công tác củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, hòa giải viên. Luật Hòa giải ở cơ sở và Nghị quyết liên tịch số 01 năm 2014 giao Trưởng ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố chủ trì phối hợp với tổ trưởng tổ hòa giải tiến hành rà soát, đánh giá về tổ chức, hoạt động của tổ hòa giải và kiến nghị Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã để đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã kiện toàn tổ hòa giải. 

Việc bầu hòa giải viên được thực hiện dưới sự chủ trì của Trưởng ban công tác Mặt trận bằng một trong các hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình; phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã phối hợp cơ quan Tư pháp cùng cấp tổ chức hội thi hòa giải viên giỏi ở cơ sở. Các hội thi hòa giải viên giỏi ở cơ sở luôn tạo được phong trào rộng lớn trên địa bàn, thu hút được nhiều người tham gia thi và theo dõi, tạo nên hiệu ứng tích cực của nhân dân trên địa bàn về tìm hiểu pháp luật nói chung và pháp luật về hòa giải ở cơ sở nói riêng.

- Phối hợp với cơ quan Tư pháp hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Định kỳ hàng năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan Tư pháp cùng cấp tổ chức kiểm tra công tác công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn. Qua đó, đã kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về hoà giải ở cơ sở. 

Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục

* PV: Bên cạnh những kết quả nêu trên, có những khó khăn, tồn tại nào trong công tác này, thưa ông Thuẩn?

+ Ông Uông Ngọc Thuẩn: Theo tôi, đó là năng lực của đội ngũ hòa giải viên cả nước không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, nhiều hòa giải viên còn hoạt động theo kinh nghiệm cá nhân, hoạt động chưa chuyên nghiệp.

- Chưa huy động được đông đảo luật sư, luật gia, những người có trình độ học vấn, chuyên môn cao trên các lĩnh vực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở; chất lượng hòa giải ở một số địa phương chưa cao; chưa gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động hòa giải ở cơ sở với hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác.

- Kinh phí bố trí cho công tác hòa giải ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Các tỉnh, thành phố đã hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở thì phạm vi thực hiện chưa đều khắp. Việc huy động các nguồn lực khác ngoài kinh phí ngân sách nhà nước để thực hiện còn chưa được chú trọng.

* PV: Thưa bà Hồng, như ông Uông Ngọc Thuẩn vừa cho biết, một trong những khó khăn, tồn tại lớn là xuất phát từ năng lực của đội ngũ hòa giải viên. Bà có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?

+ Bà Phạm Thị Hồng: Trình độ học vấn, kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải của đa số hòa giải viên còn thấp (trong tổng số hơn 600.000 hòa giải viên cả nước, chỉ có khoảng 21 nghìn hòa giải viên có trình độ chuyên môn về Luật, chiếm tỷ lệ chưa được 4%). 

- Việc vận động phụ nữ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, phụ nữ các dân tộc thiểu số tham gia hoạt động hòa giải gặp rất nhiều khó khăn do định kiến về giới, hạn chế của phong tục, tập quán, điều kiện kinh tế, địa lý, thiếu sự động viên, khích lệ, hỗ trợ từ nhà nước, cộng đồng và gia đình... 

- Đội ngũ hòa giải viên rất ít được cung cấp tài liệu, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải. 

- Chưa xây dựng được đội ngũ những người có đủ kiến thức, năng lực và điều kiện để thực hiện bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho hòa giải viên.

 Hai chuyên gia trao đổi trước khi bớc vào cuộc tọa đàm.

* PV: Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở để hoạt động hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở. Trên thực tế, vẫn có một bộ phận người dân quan ngại khi lựa chọn phương thức hòa giải ở cơ sở để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật phát sinh ở cộng đồng dân cư bởi giá trị “pháp lý” của kết quả hòa giải thành. Ông Thuẩn chia sẻ gì với băn khoăn này của người dân?

+ Ông Uông Ngọc Thuẩn: Thực tiễn công tác hòa giải nói chung, hòa giải ở cơ sở nói riêng cho thấy, các quyết định thỏa thuận hòa giải thành của các bên do các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau, vì thế thường được các bên tự giác thi hành.

Tuy nhiên, thực tế cũng có những trường hợp, cá nhân, tổ chức sau khi hòa giải thành lại thay đổi không thực hiện nội dung đã hòa giải, vì vậy kết quả hòa giải mặc dù là thành nhưng lại không có giá trị để thi hành.

Do đó, để đảm bảo giá trị pháp lý của kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, trong đó có hòa giải thành ở cơ sở; từ đó hạn chế các tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; đồng thời luật hóa định hướng Nghị quyết số 49 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”, thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã dành 01 chương (Chương XXXIII) quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.

Để tạo điều kiện cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện việc đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành, ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp ban hành văn bản số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Theo đó, thời hạn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày các bên đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở

* PV: Ông có thể cho biết, cần có giải pháp gì để tăng cường năng lực cho hòa giải viên ở cơ sở để đáp ứng việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong thời gian tới?

+ Ông Uông Ngọc Thuẩn: Dưới tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của văn hóa quốc tế, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở nước ta, tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp. Do đó, Đảng và Nhà nước định hướng tăng cường sử dụng hòa giải trong giải quyết tranh chấp như quy định trường hợp vi phạm pháp luật hình sự được miễn trách nhiệm hình sự do người bị hại tự nguyện hòa giải theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Điều này, đòi hỏi hòa giải viên phải có kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ để đảm đương hòa giải được những vụ, việc phức tạp, tranh chấp giá trị tài sản lớn, tranh chấp đất đai… Đứng trước thách thức đó, Bộ Tư pháp đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 - 2022.

Mục tiêu của Đề án là nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở nhằm đáp ứng việc giải quyết kịp thời, hiệu quả các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở; góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới; giảm số vụ việc phải đưa ra Tòa án và các cơ quan nhà nước giải quyết.

Đề án tập trung thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ sau:

- Xây dựng đội ngũ hòa giải viên có đủ tiêu chuẩn, năng lực đáp ứng yêu cầu của công tác hòa giải ở cơ sở. Thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng năng lực, trình độ của đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở, để tiến hành củng cố, kiện toàn tổ hòa giải, bầu bổ sung, thay thế hòa giải viên, bảo đảm các tổ hòa giải đủ số lượng, thành phần, tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu của công tác hòa giải ở cơ sở; tạo điều kiện cho đội ngũ luật sư, luật gia, người đang và đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên trong cơ quan tiến hành tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức có đủ tiêu chuẩn đang thường trú ở cơ sở tham gia làm hòa giải viên hoặc hỗ trợ pháp lý cho tổ hòa giải ở cơ sở.

- Xây dựng đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh, cấp huyện có đủ khả năng, kiến thức, phương pháp để hướng dẫn, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên ở cơ sở từ nguồn cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; cán bộ, công chức thuộc tổ chức chính trị - xã hội tham gia công tác hòa giải ở cơ sở; báo cáo viên pháp luật và các cá nhân khác đáp ứng tiêu chuẩn làm hòa giải viên ở cơ sở theo quy định của pháp luật.

- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên (tổ chức các lớp tập huấn, cấp phát Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở; tổ chức các diễn đàn giao lưu, trao đổi kinh nghiệm...).

- Đẩy mạnh hỗ trợ kiến thức pháp lý, hỗ trợ nghiệp vụ thực hiện hòa giải các vụ việc phức tạp, tranh chấp tài sản có giá trị lớn và các trường hợp vi phạm pháp luật nhưng được miễn trách nhiệm hình sự do người bị hại tự nguyện hòa giải theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; hướng dẫn, hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ nghiệp vụ thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở như số hóa và đăng tải các tài liệu tập huấn, bồi dưỡng, các ấn phẩm khác về hòa giải ở cơ sở trên cơ sở dữ liệu về phổ biến, giáo dục pháp luật, trên mạng xã hội facebook, youtube, trang fanpage và các mạng xã hội khác..., các phương tiện phát thanh, truyền hình, hệ thống thông tin cơ sở; trong việc tiếp nhận, xử lý thông tin hai chiều, hướng dẫn giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện hòa giải ở cơ sở, nhất là hòa giải các vụ việc khó, phức tạp.

- Thường xuyên rà soát, tổ chức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng những hòa giải viên, tổ hòa giải ở cơ sở điển hình xuất sắc, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác hòa giải ở cơ sở.

* PV: Xin bà Hồng cho biết các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian tới?

+ Bà Phạm Thị Hồng: Để phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn trong công tác hòa giải trong thời gian tới, nhất là trước yêu cầu nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 

Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở, xác định để công tác hòa giải ở cơ sở là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, kiến nghị Bộ Chính trị, Ban Bí Thư ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở.

Thứ hai, trước mắt trong điều kiện chưa sửa Luật Hòa giải ở cơ sở, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phối hợp với  Bộ Tư pháp tham mưu cho Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 01/2014/NQLT/CP-UBTWMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở, trong đó quy định rõ hơn vai trò nòng cốt của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận; trách nhiệm của ngành Tư pháp các cấp trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Thứ ba, nghiên cứu xây dựng Chương trình phối hợp công tác giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Bộ Tư pháp  trong đó có hoạt động phối hợp thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Chú trọng hướng dẫn hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tư pháp các cấp từ Trung ương đến cơ sở phối hợp chặt chẽ triển khai các văn bản pháp luật liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở; đẩy mạnh lồng ghép việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở với các phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì và phát động; kết hợp chặt chẽ công tác hòa giải ở cơ sở với hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. 

Thứ tư, xem xét nghiên cứu đưa tiêu chí chất lượng hòa giải (tỷ lệ hòa giải thành) là một trong các tiêu chí đánh giá chất lượng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận hàng năm ở cơ sở.

Thứ năm, đảm bảo nguồn kinh phí thỏa đáng cho hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào công tác hòa giải ở cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật đã nghỉ hưu, người có uy tín, già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo...

* PV: Xin cảm ơn hai vị khách mời đã tham gia chương trình của Báo Pháp luật Việt Nam!

Đọc thêm