Bên cạnh đó tình trạng BLTD trẻ em trai có xu hướng gia tăng. Kết quả nghiên cứu mẫu đại diện quốc gia của Viện nghiên cứu phát triển xã hội năm 2016 cho thấy có 4%-13% phụ nữ đã kết hôn trải nghiệm tình dục không mong muốn với chồng theo số liệu.
Một khảo sát của tổ chức quốc tế chống đói nghèo (AVV) và tổ chức viện trợ Plan tiến hành năm 2015 trên 2000 phụ nữ và trẻ em gái ở Hà Nội, TP HCM cho thấy 87% từng bị quấy rối tình dục ở khu vực công cộng và trên phương tiện giao thông công cộng.
73% thủ phạm là người quen
Chia sẻ tham luận tại hội nghị, TS Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) nhấn mạnh BLTD là tội ác nghiêm trọng chống lại phụ nữ và trẻ em, chà đạp lên quyền cơ bản nhất của con người và có thể xảy ra với bất kì cá nhân nào.
Bà Hồng chỉ ra điểm mâu thuẫn trong quan niệm phòng tránh BLTD lâu nay: Nhiều người cho rằng phụ nữ, trẻ em có thể tự bảo vệ mình bằng cách hạn chế giao du với người lạ. Song trên thực tế phần lớn thủ phạm BLTD lại là người thân quen, theo số liệu thống kê chiếm tới 73%, trong đó 10% là cha đẻ hoặc cha dượng.
Đáng lo ngại hơn, thủ phạm BLTD gồm cả những người được cho đáng tin cậy như người cao niên, người có uy tín trong cộng đồng, giáo viên và cả những người nổi tiếng, người hoạt động trong hệ thống thực thi pháp luật. Đặc biệt các vụ BLTD xảy ra ở cả những địa điểm thường được coi an toàn như trường học, công sở hay chính nhà nạn nhân.
Các kết quả thống kê của viện ISDS chỉ ra trong số 322 vụ BLTD được đưa tin từ năm 2011 đến năm 2016 có 21 nạn nhân dưới 10 tuổi, nạn nhân nhỏ nhất chỉ mới 2 tuổi. Và 60% nạn nhân trong độ tuổi 11-25 tuổi, có 5% nạn nhân trên 40 tuổi, trong đó có cả cụ bà đã 85 - 86 tuổi. Lời cảnh báo cho cả xã hội khi có hơn 30% các vụ BLTD là bạo lực kép, tức nạn nhân bị cưỡng hiếp, cướp tài sản hành, thậm chí bị giết.
Về hậu quả, BLTD không những gây tổn hại sức khỏe thể chất, tinh thần mà cả tài chính cho nạn nhân. Thực tế nhiều gia đình và nạn nhân phải vật lộn với việc thay đổi đổi sinh kế do phải chuyển chỗ ở để tránh bị kỳ thị. Thậm chí không ít nạn nhân bế tắc đến mức tìm đến cái chết.
Góc nhìn mới lý giải sự việc
Tại sao BLTD vẫn tiếp diễn, thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn mặc những nỗ lực của xã hội? Ths.BS Hoàng Tú Anh- Giám đốc Trung tâm sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP) đưa ra góc nhìn mới là rào cản văn hóa:
“Làm sao người ta chịu đựng bao nhiêu năm như thế, làm sao họ vượt qua được?”, BS Tú Anh thắc mắc và đưa ra những lí giải như người phụ nữ chịu đựng vì con hoặc lệ thuộc kinh tế. Song thực tế nhiều phụ nữ giữ vai trò lao động chính trong gia đình vẫn cam chịu sống chung với BLTD.
Bà Tú Anh chỉ ra nhiều quan niệm ở Việt Nam trở thành công cụ biện minh cho hành vi BLTD. Ví dụ như quan niệm “xấu chàng hổ ai”, “yêu cho roi cho vọt”, “dạy con từ thuở còn thơ , dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Tất cả đều biện minh cho bạo lực nói chung, BLTD nói riêng:
“Chẳng hạn quan niệm con gái đến tuổi phải lấy chồng, con trai đến tuổi phải lấy vợ tạo ra áp lực dẫn đến những cuộc hôn nhân không tình yêu và là môi trường để BLTD bùng phát. Thậm chí đàn ông gia trưởng còn được vinh danh vì cho rằng nhờ tính gia trưởng mới cai quản được gia đình, dạy con tốt hơn. Hay những quan điểm đè nặng lên vai người phụ nữ trách nhiệm gia đình”, chuyên gia Tú Anh phân tích.
Tiếp tục mổ xẻ rào cản văn hóa trong nỗ lực xóa bỏ BLTD, BS Tú Anh đề cập đến yếu tố “niềm tự hào biểu trưng” và cho rằng đây chính là nguyên nhân chính đang “nuôi dưỡng” BLTD. Nữ diễn giả chia sẻ mẩu chuyện về người phụ nữ cam chịu bạo lực tự hào vì hàng xóm, nhà chồng rất tôn trọng chị bởi đã cố gắng gìn giữ hạnh phúc gia đình.
Câu chuyện thứ hai kể về người cha dùng xích trói con giam đói khi biết con đồng tính. Đến khi con đói kiệt sức, van tay xin lỗi thì người cha mới tháo xích: “Người cha tự hào vì cho rằng công việc ngăn cấm con là điều nên làm, ngăn con sa vào lối sống tha hóa. Tất cả những người tôi vừa kể đều tự hào về hành vi bạo lực của mình”.
Đồng quan điểm, TS Khuất Thu Hồng nói rằng niềm tự hào biểu trưng thể hiện ngay trong mỗi gia đình và cả cộng đồng thường ngày. Nó khiến người phụ nữ phải chịu đựng bởi xã hội mặc định phụ nữ phải có vai trò, trách nhiệm xây dựng tổ ấm, gìn giữ gia đình hạnh phúc để đạt những danh hiệu như gia đình văn hóa, phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà. Nhưng đằng sau trách nhiệm đó, giá trị thực của người phụ nữ gần như bằng không.
Hay nói cách khác, khi phụ nữ gìn giữ tốt thể diện cho gia đình xã hội thì họ nhận được những lời khen có cánh, những bó hoa và được xướng danh trong các buổi lễ ngày 8/3, 20/10. Nhưng nếu không giữ thể diện cho gia đình, họ sẽ bị trách móc, lên án vì không biết chăm lo tổ ấm. Thậm chí nhiều địa phương mất danh hiệu “xã/phường văn hóa” còn phê bình những phụ nữ trong gia đình không đạt chuẩn khiến tổ chức mất danh hiệu:
Trong phiên thảo luận, các chuyên gia phân tích ở góc độ văn hóa, tư tưởng lạc hậu của một bộ phận người dân khiến vấn nạn BLTD vẫn còn nhức nhối.
Phụ nữ phải chịu sức ép vô hình từ những quan niệm sai lầm về tình dục, về nam tính/nữ tính cùng với những định kiến và khuôn mẫu giới bất bình đẳng khiến cộng đồng, gia đình và bản thân các nạn nhân đôi khi chấp nhận cam chịu thay vì lên tiếng đòi lại công bằng hay kết nối với nhau để đấu tranh.
Từ những phân tích trên, giới chuyên gia cho rằng các nhà hoạch định chính sách phải chú ý đến yếu tố “niềm tự hào biểu trưng”, “BLTD biểu trưng” và loại bỏ nó để mọi người nhìn thấy BLTD.