Đồng chí Võ Nguyên Giáp - người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thành lập Đội - đã soạn ra Mười lời thề danh dự và Mười lời thề ấy được đọc trân trọng trong Lễ thành lập ngày 22/12/1944.
Vang vọng lời thề
Về thời khắc lịch sử này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Giữa mùa đông khí trời non cao lạnh buốt, trên một khoảnh đất rộng giữa khu rừng đại ngàn với những hàng cây thẳng tắp, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân lần đầu tiên tập hợp đội ngũ chỉnh tề dưới lá cờ đỏ thắm. Đại diện Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng cùng với rất đông đại biểu nhân dân Tày, Nùng, Dao của hai tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn đến tham dự, đứng thành hai hàng hai bên bộ đội. Tôi được ủy nhiệm thay mặt Đoàn thể tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và vạch rõ nhiệm vụ của Đội với Tổ quốc”.
Sau lời tuyên bố của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đại diện Liên Tỉnh ủy đọc thư chúc mừng, đại diện các tổ chức nông dân, thanh niên, phụ nữ, các đội vũ trang địa phương cũng lên chúc mừng Đội bằng những lời cảm động, đầy tin tưởng và thương yêu. Kế đó, Lễ tuyên thệ của Đội diễn ra. Mười lời thề danh dự đã được chính đồng chí Võ Nguyên Giáp long trọng đọc vang lên lần lượt cùng những cánh tay vung lên, hô vang: “Xin thề! Xin thề!”.
Mười lời thề đó như sau:
“Chúng tôi, đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân xin lấy danh dự một chiến sĩ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh:
1. Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống phát xít Pháp-Nhật và bọn Việt gian phản quốc, để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước Dân chủ, Độc lập, Tự do ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.
2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, khi nhận một nhiệm vụ gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.
3. Bao giờ cũng kiên quyết phấn đấu, dù gian lao, khổ hạnh cũng không phàn nàn, vào sống, ra chết cũng không sờn trí, khi ra trận mạc quyết trí xung phong, dù đầu rơi, máu chảy cũng không lùi bước.
4. Lúc nào cũng khẩn trương hoạt bát, hết sức học tập, chiến đấu để tự rèn luyện thành một người quân nhân Cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc cứu nước.
5. Tuyệt đối giữ bí mật cho mọi việc của Đội như nội dung, tổ chức, kế hoạch hành động cùng những người chỉ huy trong Đội và giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc.
6. Nếu trong lúc chiến đấu bị quân địch bắt được, dù bị cực hình tàn khốc thế nào cũng quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cứu quốc, không bao giờ phản bội, xưng khai.
7. Hết sức ái hộ các bạn chiến đấu trong Đội cũng như ái hộ bạn thân, hết lòng giúp nhau trong lúc thường cũng như lúc ra trận.
8. Bao giờ cũng chủ trương giữ gìn vũ khí của Đội, quyết không để cho vũ khí hư hỏng hoặc rơi vào tay quân thù.
9. Khi tiếp xúc với dân chúng, sẽ làm đúng ba điều nên: kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân và ba điều răn: không doạ nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân. Để gây lòng tin cậy của dân chúng, thực hiện “quân dân nhất trí”, cứu nước diệt gian.
10. Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình và sửa chữa, giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh của đội quân giải phóng và hại đến quốc thể Việt Nam.”.
Lẽ sống cao cả
Ngày 24/5/1947, tại Hội nghị dân quân, tự vệ, du kích toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Định Quán, Định Hoá, Thái Nguyên, Tổng Quân uỷ Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam đã công bố Sắc lệnh của Chính phủ ban hành Mười lời thề danh dự và Mười hai điều kỷ luật dân vận của đội viên dân quân, tự vệ và du kích.
Chiến sĩ mới tuyên thệ trước Quân kỳ |
Việc tuyên thệ bằng Mười lời thề của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định bằng pháp luật. Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Nghĩa vụ quân sự đều có quy định: “Quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
70 năm qua, tuy có thay đổi một số điểm về ngôn từ cho phù hợp, nhưng cốt lõi của Mười lời thề hầu như không hề thay đổi. Điều này chứng tỏ tầm nhìn bao quát từ quá khứ đến tương lai của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trải qua 70 năm, Mười lời thề vẫn còn nguyên giá trị của nó, vẫn ngày đêm nhắc nhở mỗi người lính trong mỗi hành động đời thường cũng như khi đối mặt với quân thù, luôn nêu cao quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vinh quang mà Đảng, nhân dân giao phó. Mười lời thề đã trở thành máu thịt đối với người chiến sĩ trên mỗi chặng đường chiến đấu và chiến thắng.
Mười lời thề bao hàm nhiều mặt trong phẩm chất của người chiến sĩ, nhưng hồn cốt của nó là lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc của một đội quân cách mạng mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục, rèn luyện. Lòng trung thành, tận tụy của Quân đội ta đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi quân nhân, nuôi dưỡng phẩm chất cách mạng, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chiến đấu hy sinh quên mình dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc, bảo vệ trọn vẹn gấm vóc non sông Việt Nam, trở thành lẽ sống cao cả, trở thành phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Lòng trung thành của các Đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, của Quân đội nhân dân Việt Nam được xác định, xây đắp trong mỗi quân nhân. Khi bước vào đội ngũ, người chiến sĩ tự hào đọc lên “Mười lời thề danh dự của quân nhân” mà thế hệ cha anh trao lại. Và Mười lời tuyên thệ được đọc thường xuyên trong lễ chào cờ của đơn vị, nhắc nhở mọi quân nhân phấn đấu làm tốt bổn phận của mình, xứng đáng là người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Nghi thức này và Mười lời thề trở thành truyền thống lịch sử của Quân đội ta.
Người chiến sĩ trong giờ phút thiêng liêng dưới cờ Tổ quốc, bằng trái tim và khối óc của mình đã xin thề: “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”... “Nếu bị quân địch bắt, dù phải chịu cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, không bao giờ phản bội xưng khai”... Người chiến sĩ đứng dưới cờ không thể nào quên cảm giác mạch máu mình như giãn ra để dòng nhiệt huyết chảy tràn khắp cơ thể và cùng đồng đội hô vang: “Xin thề”.
Vững bước dưới Quân kỳ
Vậy là, 70 năm qua, ở đâu có bóng dáng người lính thì ở đó vang lên những lời thề son sắt. Lời thề ấy được phát lên từ thẳm sâu trái tim và khối óc người lính, để người Vệ Quốc đoàn “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” 60 ngày đêm sống mãi với Thủ đô Hà Nội tháng 12/1946; để người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam 56 ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; để có một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, làm nên một ngày 30/4/1975 chói ngời sắc đỏ bởi sự hy sinh và lòng dũng cảm của những chiến sĩ Giải phóng quân; để vang mãi khúc quân hành về người lính giữa Trường Sa năm nào, trước lưỡi lê, họng súng của quân xâm lược, khi ngã xuống đã ôm lá cờ Tổ quốc và hô vang: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”.
Quân đội nhân dân Việt Nam vững bước tiến dưới Quân kỳ Quyết chiến quyết thắng |
Lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa là khát vọng hoà bình của cả dân tộc, là quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng của mình. Vì lẽ đó, những người lính không quản hy sinh, ngày đêm vững vàng trên biển đảo tiền tiêu nơi đầu sóng ngọn gió chống chọi với giặc giã. Trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng là khẩu hiệu hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam suốt 70 năm qua. Trong những hoàn cảnh khó khăn thử thách, Quân đội ta luôn thực hiện trọn vẹn khẩu hiệu hành động đó.
Lòng trung thành tuyệt đối của Quân đội với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa đã làm nên những chiến thắng vang dội trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc, hoà bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân.