Trang mới của Bộ, ngành Tư pháp
Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VII (họp từ ngày 24/6 đến 4/7/1981), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập Bộ Tư pháp: “Thực tiễn trong hai mươi năm qua đã chứng minh rõ việc Hội đồng Bộ trưởng - cơ quan quản lý toàn diện công việc của Nhà nước mà không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý”. Hội đồng Bộ trưởng (và các Ủy ban nhân dân địa phương) không nắm được tình hình thi hành pháp luật, không nắm được tình hình xét xử của các Tòa án, không gắn được việc xây dựng pháp luật với việc kiểm tra thi hành pháp luật và điều hành công việc chung...
![]() |
Buổi gặp mặt thân mật nhân ngày thành lập lại ngành Tư pháp, ngày 22/11/1981. (Ảnh tư liệu - Phòng truyền thống Bộ Tư pháp) |
Trong phiên họp toàn thể ngày 04/7/1981, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng giới thiệu danh sách các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng, các đại biểu đã biểu quyết tán thành danh sách các thành viên Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền. Cùng với quyết định tái lập Bộ Tư pháp, Quốc hội khóa VII cũng thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), trong đó quy định Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức.
Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp có chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý thống nhất các công việc về tư pháp trong cả nước, bao gồm công tác dự thảo pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các Tòa án địa phương và các công tác tư pháp khác; công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật XHCN trong cán bộ và Nhân dân; góp phần bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật...
Cùng với việc kiện toàn hệ thống cơ quan tư pháp địa phương, ngày 29/5/1982, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 340/TT về việc xây dựng và kiện toàn Vụ Pháp chế ở các Bộ, Ủy ban Nhà nước và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng với tinh thần: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng đã nhìn nhận, đánh giá khách quan những thành tựu cũng như hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo cách mạng XHCN. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng.
Từ năm 2002, nhiệm vụ “quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức” được chuyển giao cho TAND tối cao thực hiện. Từ khi được tái thành lập (1981), đến nay, Chính phủ đã ban hành 8 nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp để phù hợp với từng giai đoạn phát triển, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Mới đây nhất, với 22 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Nghị định số 39/2025/NĐ-CP ngày 26/2/2025, Bộ Tư pháp tiếp tục khẳng định vị trí pháp lý là cơ quan chuyên môn của Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước về một số lĩnh vực quan trọng như: Xây dựng pháp luật; tổ chức thi hành pháp luật; thi hành án dân sự (THADS); hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp; công tác pháp chế; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hướng đến xây dựng một bộ máy “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp theo Nghị định 39/2025/NĐ-CP gồm 20 đơn vị, giảm 5 đơn vị so với trước đây (và từ tháng 5/2025, bàn giao đơn vị Thanh tra Bộ Tư pháp về Thanh tra Chính phủ).
Các vụ, cục giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước gồm: Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); Vụ Pháp luật hình sự - hành chính; Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế; Vụ Pháp luật quốc tế; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Hợp tác quốc tế; Văn phòng Bộ; Cục Quản lý THADS; Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính; Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý; Cục Hành chính tư pháp; Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước; Cục Bổ trợ tư pháp; Cục Kế hoạch - Tài chính; Cục Công nghệ thông tin.
Các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức Bộ Tư pháp, đặc biệt Nghị định 39/2025/NĐ-CP đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới, kiện toàn hệ thống các cơ quan tư pháp, đánh dấu một bước phát triển mới của tổ chức bộ máy cơ quan Bộ, ngành Tư pháp, vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.
Góp phần kiến tạo hành lang pháp lý của thời kỳ đổi mới
Nhìn lại gần 40 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, nhất là trong giai đoạn đầu chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; chuyển từ thế bị bao vây, cấm vận sang mở cửa, hội nhập, yêu cầu của thực tiễn không chỉ đòi hỏi phải tăng cường pháp chế XHCN mà còn phải quản lý xã hội bằng pháp luật, thượng tôn pháp luật. Có thể nói, trong quá trình đó, Bộ, ngành Tư pháp đã đi cùng, gắn liền với công cuộc đổi mới của đất nước, góp phần kiến tạo hành lang pháp lý để đất nước đổi mới, hội nhập, phát triển.
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp trong giai đoạn mới
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhất, ngày 24/8/2015, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Đảng, Nhà nước tin tưởng giao cho là thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật, quản lý nhà nước về hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, quản lý nhà nước về thi hành pháp luật, thi hành án..., ngành Tư pháp đã có những đóng góp tích cực trong việc đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.
![]() |
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp, 24/8/2015. (Ảnh: Cổng TTĐT Bộ Tư pháp) |
Cố Tổng Bí thư yêu cầu, trong bất luận hoàn cảnh nào, ngành Tư pháp phải kiên định lập trường tư tưởng, luôn giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống luật pháp của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã đề cao việc phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN - một Nhà nước thực sự kiến tạo khuôn khổ thể chế, pháp luật cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm để mỗi người dân chủ động, tích cực sử dụng, thực hiện đúng đắn và an toàn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong làm ăn, sinh sống, đóng góp mọi sức người, sức của, năng lực và trí tuệ xây dựng, phát triển đất nước, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho Nhà nước vận hành trôi chảy, vừa tiếp nhận, phát triển những giá trị đã được khẳng định của văn minh nhân loại, vừa phải phù hợp với những giá trị tốt đẹp của truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của chế độ ta, đất nước ta trong giai đoạn phát triển mới.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Hơn ai hết, Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc vấn đề này, làm tốt hơn nữa việc nghiên cứu, làm rõ và từng bước bổ sung, đổi mới cả về lý luận và thực tiễn, hoàn thiện thể chế theo phương châm học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài, nhưng phải biết sàng lọc, vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Ngành Tư pháp cần tập trung sức lực, trí tuệ, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện, sâu sắc về chất lượng, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp, của ngành Tư pháp, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, đòi hỏi của cách mạng trong giai đoạn mới.
Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh (trong bài viết: “Vai trò, định hướng phát triển của Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên mới”), giai đoạn từ 1981 đến nay, với tinh thần trách nhiệm, đổi mới, tận tâm, cống hiến của các thế hệ Lãnh đạo và cán bộ, công chức, viên chức qua các thời kỳ, Bộ, ngành Tư pháp đã hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh. |
“Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng, hình thành hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là phương tiện để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, phục vụ hội nhập quốc tế. Đồng thời, Bộ, ngành Tư pháp đã có những đóng góp tích cực, góp phần thực hiện thành công, thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp; góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; mở rộng hội nhập và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, trích bài viết: “Vai trò, định hướng phát triển của Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên mới”, tháng 2/2025.
Bám sát đường lối, chủ trương của Đảng và thực tiễn, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền công dân, quyền con người, Bộ, ngành Tư pháp đã tham mưu và trực tiếp tham gia xây dựng thành công nhiều Nghị quyết của Đảng góp phần quan trọng vào việc phát triển đất nước, như Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới; đặc biệt mới đây là Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, với vai trò là một cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã tham mưu giúp Chính phủ, Quốc hội về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, có được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập, định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong đó phải kể tới các bản Hiến pháp, các luật, bộ luật lớn về dân sự, kinh doanh, thương mại, hành chính, hình sự, tố tụng, giải quyết tranh chấp và khoảng 300 luật, bộ luật khác đang còn hiệu lực; tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
![]() |
Bộ, ngành Tư pháp đã trực tiếp tham mưu xây dựng một số đạo luật quan trọng mang tính chất “rường cột” như các bản Hiến pháp năm 1992, 2013; các Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015; các Bộ luật Hình sự năm 1985, 1999, 2015 và các luật sửa đổi, bổ sung; các Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, 1986, 2000 và 2014; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020); các Luật Ban hành VBQPPL năm 1996, 2004, 2008, 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và 2025; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012... và nhiều VBQPPL quan trọng khác.
Đồng thời, Bộ Tư pháp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp Chính phủ thẩm định các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình, các dự thảo nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hầu hết các ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đều thể hiện trách nhiệm, được cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra, ban hành ghi nhận, đánh giá cao và được xem là ý kiến quan trọng để xem xét quyết định.
Bên cạnh công tác xây dựng pháp luật, trong công tác tổ chức thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện thành công công tác theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, rà soát và đề xuất xử lý các VBQPPL ban hành không đúng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; hệ thống hóa, pháp điển hóa hệ thống VBQPPL; thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đưa các VBQPPL đi vào thực tế đời sống xã hội, góp phần quan trọng nâng cao ý thức, tính thượng tôn pháp luật, phát triển đất nước, xây dựng xã hội văn minh, giàu đẹp, làm cho pháp luật đến gần với người dân, doanh nghiệp và đi vào cuộc sống.
Trong công tác THADS, thi hành án hành chính, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng kết quả THADS liên tục tăng qua các năm cả về số lượng việc và tiền; năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đặc biệt là thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Hệ thống đăng ký trực tuyến các biện pháp bảo đảm đã cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình từ nhiều năm và đạt tỷ lệ đăng ký trực tuyến chiếm đến 87% và năm 2024 đã được vinh danh ở hạng mục “Cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc” tại Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam năm 2024...
![]() |
Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng, phát triển được hệ thống các cơ quan, tổ chức hành nghề luật, đội ngũ công chức, viên chức, các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, tư pháp quốc tế, hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quyền của mình và mang lại công bằng, bình đẳng trước pháp luật; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, trong thành tựu chung của đất nước gần 40 năm qua có những đóng góp quan trọng của Bộ, ngành Tư pháp với vai trò, trách nhiệm, tận tâm, cống hiến, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng: Bộ Tư pháp đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, Bộ Tư pháp đóng vai trò rất quan trọng, nhất là trong xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn tổ chức bộ máy, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điển hình trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế đó là Bộ Tư pháp giúp Chính phủ trình Quốc hội ban hành nhiều VBQPPL, trong đó có các đạo luật rất quan trọng, là “rường cột” của hệ thống pháp luật.
![]() |
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng. (Ảnh: Văn Huy) |
Về mặt dân sự - kinh tế, điển hình là Bộ luật Dân sự (được ban hành năm 1995, 2005 và 2015) - tạo cơ sở pháp lý rất quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội, trong đó quy định các chế định về quyền sở hữu, về hợp đồng, quyền nhân thân, ghi nhận và bảo vệ tốt hơn quyền của các chủ thể trong giao lưu dân sự...
Quy trình xây dựng các VBQPPL ngày càng được Bộ Tư pháp tham mưu đổi mới theo hướng tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao tính chuyên nghiệp trong tất cả các khâu, từ lập định hướng chương trình lập pháp đến soạn thảo, thẩm định và ban hành. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế, sự phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương trong việc xây dựng văn bản được chú trọng thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực.
Bộ Tư pháp cũng có vai trò rất quan trọng trong việc thẩm định các dự thảo VBQPPL. Thẩm định là khâu quan trọng trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL, giúp nâng cao chất lượng văn bản, xác định rõ sự cần thiết ban hành, sự phù hợp của văn bản với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản. Bên cạnh đó, kết quả của hoạt động thẩm định sẽ giúp các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành VBQPPL có thêm thông tin, cơ sở để xem xét, đánh giá toàn diện nội dung dự án, dự thảo VBQPPL trước khi quyết định thông qua hoặc ban hành.
(Còn nữa)