Chuyện của người lính trẻ
Sinh ra và lớn lên tại xã Ninh Giang (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), vùng quê được mệnh danh là “vịnh hạ long trên cạn", với nhiều danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử vô cùng độc đáo. Thời niên thiếu, Tuấn hay đọc và rất thích những câu truyện về người lính biên phòng cưỡi ngựa, bắn súng tiễu trừ phỉ, giỏi võ. Chỉ cần gấp cuốn truyện lại là những hình ảnh hùng dũng về chiến sỹ biên phòng như "người trên lưng ngựa, ngựa trên lưng đèo, gió thổi mây bay, tóc vờn gió núi"... Có lẽ từ cái cơ duyên ấy đã thôi thúc chàng trai trẻ Tuấn phải thi bằng được vào Trường Sỹ quan biên phòng.
Năm 1983, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Tuấn lập tức làm hồ sơ đăng ký thi và trúng tuyển vào Trường Sỹ quan Biên phòng (nay là Học viện Biên phòng, tại Sơn tây - Hà Nội). Bản thân chàng học viên sỹ quan trẻ hồi đó cũng không ngờ được rằng, ngày mình bước chân qua cánh cổng của trường học thì cơ duyên đến với cuộc đời binh nghiệp không còn lẽ tự nhiên nữa.
Ba năm khổ luyện trôi qua, Tuấn ra trường với màu quân phục người lính, trên vai gắn quân hàm trung úy. Với kết quả suất sắc trong quá trình học tập, Tuấn được điều về công tác tại Bộ đội Biên phòng tỉnh Đắk Lắk và được phân công làm Đội trưởng đội Trinh sát đồn Biên phòng 767 (Nay là xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, Đắk Nông).
Trong ký ức, xã Quảng Trực khi đó đa số là người đồng bào dân tộc thiểu số (dân tộc M'nông), đường sá khó khăn, kinh tế nghèo nàn. Tuấn cùng đồng đội được giao nhiệm vụ bám địa bàn, bám dân. Thực hiện tiêu chí 4 cùng: "Cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng dân tộc". Ban ngày, Tuấn cùng đồng đội thay phiên nhau đi làm rẫy với bà con, cùng học tiếng dân tộc. Khi trời tối, lại tranh thủ tuyên truyền những chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Vận động bà con tuân thủ các quy định pháp luật về Biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, tố giác các đối tượng xấu, tiếp tế cho PULRO…
Từ những năm tháng đó, từ một chàng sĩ quan trẻ chưa biết nói tiếng đồng bào, chưa hiểu được các tập tục của đồng bào. Sau những năm tháng khổ luyện, chịu đủ khó khăn, Tuấn nhanh chóng có thể giao tiếp bằng tiếng M'nông với đồng bào, thông thạo làm rẫy và hiểu được các tập tục của đồng bào, qua đó hiệu quả công tác nắm tình hình đối tượng, địa bàn được sâu rộng hơn.
Đến năm 1994, do lĩnh vực công tác là bằng biện pháp nghiệp vụ để đấu tranh với các hoạt động của các loại tội phạm vi phạm pháp luật trên biên giới, cấp trên đã cử Tuấn đi học tại chức tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Từ đó đến nay là cả quãng thời gian nỗ lực, kiên trì rèn luyện, học tập, phấn đấu không ngừng. Sau gần 40 năm công tác trong lực lượng Bộ đội Biên phòng, phụ trách công tác nghiệp vụ gắn bó với đồng bào các dân tộc. Trải qua nhiều vị trí, cương vị công tác, từ Đội trưởng trinh sát, Đồn phó trinh sát, Phó phòng, Trưởng phòng, và hiện nay là Phó Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Đắk Lắk.
Đại tá Tống Anh Tuấn phát biểu tại Lễ tiễn quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ |
Sáng tạo trong xử lý tình huống vi phạm pháp luật
Quá trình công tác các đồn biên phòng để lại cho Tuấn rất nhiều kỷ niệm, cũng như kinh nhiệm công tác, đặc biệt là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cũng như vùng biên giới Tây Nguyên nói riêng.
Anh Tuấn kể lại: "Ngày đó, tôi nằm địa bàn và ở nhà của anh Điểu Lý. Thời gian này, tại địa bàn liên tục xảy ra một số trường hợp người bị ốm đau, trâu bò bỗng dưng lăn đùng ra chết. Đồng bào nơi đây hoang mang, cho rằng do con “Ma lai" làm và nghi ngờ cho một người phụ nữ ở trong buôn. Điểu Lý nói: Phải giết con “Ma lai" này thì buôn làng mới yên lành được. Nghe xong, Tuấn mới ôn tồn hỏi lại: "Có căn cứ gì mà nghi người phụ nữ đó là "Ma lai"?. Điểu Lý trả lời: Chỉ cần đun nóng chì tan chảy, đổ vào lòng bàn tay người bị nghi, nếu là "Ma lai"sẽ không thấy đau, hoặc dìm xuống nước là "Ma lai" sẽ không chết. Hơn nữa, ban đêm "Ma lai" sẽ đi lang thang tìm ăn nội tạng của trâu bò. Nắm bắt được sự việc, Tuấn bàn bạc với đồng đội và quyết định tập trung bà con đồng bào, kết hợp già làng (người có uy tín trong bon, buôn) giải thích tường tận cho họ hiểu. Trong cuộc tuyên truyền vận động đó phải dùng đến lời lẽ đanh thép, nếu chứng minh được người bị nghi không phải "Ma lai", sẽ đem người vu oan thực hiện các biện pháp như họ nói và phải chịu nộp phạt với buôn làng. Sau nhiều lần vận động, tuyên truyền đồng bào dân tộc thuộc đồn biên phòng quản lý đã xóa bỏ được suy nghĩ và hủ tục về con “Ma lai" và "bùa ngải".
Cùng thời gian này, có nhiều trường hợp bà con hay vượt biên sang đất nước Campuchia để săn bắn, đặt bẫy thú rừng, vi phạm về quy chế Biên giới quốc gia. Khi bị phát hiện, bắt giữ thì bà con trả lời: "Cứ thấy dấu chân con thú thì đi theo để săn bắn, đặt bẫy không biết đâu là biên giới cả". Anh Tuấn nghĩ, ở trường hợp này, nếu áp dụng pháp luật ra để xử phạt thì bà con cũng không có tiền nộp phạt, trong khi những người vi phạm lại là lao động, trụ cốt chính trong nhà. Thế là, anh Tuấn lại khéo léo lồng ghép vào luật tục của đồng bào như những vụ "Trộm cắp tài sản" để xử lý, răn đe răn đe. Tuấn nghĩ vì chủ quyền, lãnh thổ biên giới Quốc gia cũng như ranh giới của một gia đình, của nương rẫy, nếu vượt biên sang đặt bẫy, săn thú cũng giống như hành vi trộm cắp. Cách làm này đã khiến đồng đội cũng như người vi phạm pháp luật đều tâm phục, khẩu phục.
Từ những vụ việc kinh qua, anh Tuấn rút ra kinh nghiệm đối với các vụ việc của bà con đồng bào dân tộc thiểu số khi áp dụng xử lý vi phạm pháp luật, nếu chúng ta khéo léo vận dụng giữa luật tục và pháp luật sẽ giải quyết vấn đề một cách triệt để. Nhiều hủ tục lạc hậu cần phải xóa bỏ, nhưng những luật tục tiến bộ, phù hợp với văn bản, quy phạm pháp luật có thể áp dụng nhằm giải quyết vấn đề, vụ việc "thấu tình đạt lý".
Tháng 8/2014, Đại tá Tống Anh Tuấn được tin tưởng, đề bạt giữ chức Phó Chỉ huy Trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh Đắk Lắk. Ở cương vị mới, với nhiệm vụ là người chỉ huy phụ trách công tác nghiệp vụ, đấu tranh với các loại tội phạm thuộc diện vi phạm pháp luật trên biên giới, như tội phạm buôn bán ma túy, buôn bán người, buôn lậu… Qua thực tế kinh nhiệm công tác cũng như học tập theo cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh, anh Tuấn nhận thấy mỗi người cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng phải không ngừng học tập, tu dưỡng trong mỗi việc làm, hành động… để "giỏi về nghiệp vụ, sáng về đạo đức, vững về bản lĩnh và có tâm trong công việc". Hơn nữa, cần phải biết cách vận dụng sáng tạo trong việc xử lý các tình huống vi phạm pháp luật.
Đại tá Tống Anh Tuấn cho biết: "Tỉnh Đắk Lắk có đường biên giới dài hơn 73km, tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri của Vương quốc Campuchia, địa bàn biên giới gồm 4 xã thuộc hai huyện Buôn Đôn và Ea Súp. Người dân thuộc địa bàn trên đa phần có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu hiểu biết pháp luật, nhiều khi vì khó khăn mà dẫn tới vi phạm pháp luật. Vì thế, ngoài việc kết hợp tuyên truyền, phổ biến các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, lực lượng bộ đội biên phòng tỉnh cũng thường xuyên phối hợp, giúp đỡ người dân làm ăn phát triển kinh tế. Với những gia đình đặc biệt khó khăn tại địa bàn 3 xã biên giới Krông Na (huyện Buôn Đôn), Ia Rvê, Ia Lốp (huyện Ea Súp), lực lượng bộ đội biên phòng cũng đến từng gia đình trao quà hỗ trợ, đồng thời, thăm hỏi, động viên các gia đình khắc phục mọi khó khăn, chấp hành nghiêm quy chế khu vực biên giới và các quy định về phòng, chống lây nhiễm dịch bệnh, tuyệt đối không để dịch bệnh xâm nhập qua biên giới, quyết tâm cùng với các cấp, các ngành, địa phương trong cả nước đẩy lùi đại dịch Covid-19".
Với những cống hiến trong suốt quá trình công tác, nhiều năm liền Đại tá Tống Anh Tuấn đã nhận được Bằng khen của Cục trinh sát Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bằng khen của UBND tỉnh Đắk Lắk, HĐND tỉnh Đắk Lắk và của các cấp vì có thành tích trong bảo vệ chủ quyền biên giới Quốc gia. Đặc biệt, anh Tuấn vinh dự nhận được các huân, huy chương, kỷ niệm chương của Quân đội và lực lượng Bộ đội biên phòng./.