Điện khí đang phát triển
Theo Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh) đã chỉ rõ với mức tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 7%/năm, nhu cầu điện của nước ta vào năm 2020 sẽ vào khoảng 235 - 245 tỉ kWh/năm, tương đương tổng công suất hơn 52 ngàn MW.
Nhu cầu bổ sung thêm các nguồn điện mới luôn là vấn đề cấp bách đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. PVN liên tục đầu tư các dự án nguồn điện từ năm 2007. Tập đoàn này đã đưa vào vận hành 4 nhà máy nhiệt điện khí, 3 nhà máy thủy điện, 1 nhà máy nhiệt điện than, tổng công suất 4.208,2 MW. Để đảm bảo nhu cầu phát triển nguồn điện theo chiến lược đề ra, PVN đang đẩy nhanh công tác nghiên cứu phát triển các dự án điện khí từ nguồn nhiên liệu khí (Dự án điện khí Kiên Giang sử dụng khí Lô B, Dự án điện Khí sử dụng Khí từ mỏ Cá Voi Xanh) và các dự án điện khí LNG (Nhơn Trạch 3, Sơn Mỹ 2).
Về nhiệt điện than, PVN đã hoàn thành Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 và đang hoạt động có hiệu quả. Đơn vị này cũng đang đẩy nhanh tiến độ 3 dự án nhiệt điện than là Long Phú 1, Sông Hậu 1, Thái Bình 2. Đặc biệt, trong bối cảnh 3 - 4 năm sắp tới không có dự án nguồn điện lớn nào hoàn thành, việc đưa NMNĐ Thái Bình 2 vào phát điện (đã hoàn thành hơn 83% tổng khối lượng các hạng mục xây dựng và lắp đặt thiết bị chính) lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Phương án nào cho Nhiệt điện Thái Bình 2?
Trong quá khứ, đã xảy ra một số sai phạm tại dự án Nhiệt điện Thái Bình 2. Các cơ quan chức năng đã xử lý các cá nhân vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Một số vấn đề liên quan đến vi phạm như thu hồi tài sản nhà nước thất thoát từ dự án sẽ tiếp tục được các cơ quan chức năng xử lý. Theo PVN, đây không phải là lý do để tiếp tục ảnh hưởng tới công tác triển khai dự án.
Dự án NMNĐ Thái Bình 2 có công suất thiết kế 1.200MW, sẽ cung cấp ổn định cho hệ thống điện quốc gia khoảng 7,2 tỉ kWh điện thương phẩm/năm. Đây là nhà máy có ý nghĩa quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Dự án đặt mục tiêu hoàn thành vào năm 2020.
Để đạt mục tiêu trên, PVN cho rằng một mình PVN không thể tự giải quyết được do dự án còn nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là vấn đề tài chính. Theo PVN, để xử lý vấn đề vốn của NMNĐ Thái Bình 2, có hai cách: Thứ nhất là tiến hành đánh giá lại hiệu quả dự án làm căn cứ xem xét bổ sung nguồn tài chính triển khai dự án. Thứ hai là khơi nguồn tài chính, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ về tài chính để dự án về đích.
PVN phân tích, với phương án thứ nhất, Dự án NMNĐ Thái Bình 2 sẽ lại rơi vào cảnh “khó hẹn ngày về”, bởi để tiến hành đánh giá lại hiệu quả dự án sẽ mất nhiều thời gian. Việc kéo dài dự án khiến các chi phí quản lý, khấu hao, trả lãi ngân hàng tăng cao. Đến thời điểm hiện tại, với 32.000 tỉ đồng đã đầu tư (gồm cả vốn vay và vốn chủ sở hữu), thì mỗi ngày dự án ngốn khoảng 6 tỉ đồng tiền lãi. Mặt khác, tài sản đã đầu tư mà không hoàn thành Nhà máy thì ngày càng mất giá trị và không có hy vọng thu hồi vốn gốc.
Với phương án thứ 2, cơ hội để dự án NMNĐ Thái Bình 2 sớm hoàn thành, có thể thu hồi vốn đầu tư là khá rõ. PVN phân tích, nếu bỏ thêm 2.500 tỷ đồng để hoàn thành 17% khối lượng công việc còn lại, đưa nhà máy vào vận hành thì lợi ích mang lại rất rõ ràng. Mỗi năm hệ thống điện quốc gia sẽ được bổ sung 7,2 tỉ kWh điện. Dự án hoạt động sẽ tạo doanh thu để từ đó chủ đầu tư thực hiện các nghĩa vụ tài chính với các tổ chức tài trợ vốn cho dự án, đóng góp lớn vào ngân sách và tạo hàng ngàn việc làm cho người dân địa phương.
Mới đây, Thường trực Chính phủ đã họp bàn riêng về dự án NMNĐ Thái Bình 2, và đã có kết luận để tháo gỡ các khó khăn nhưng văn bản cuối cùng về “số phận” của NMNĐ Thái Bình vẫn đang được chủ đầu tư và các nhà thầu thi công mong chờ.
Hai cách “cứu” Nhiệt điện Thái Bình 2
“Theo PVN, để xử lý vấn đề vốn của NMNĐ Thái Bình 2, có hai cách: Thứ nhất là tiến hành đánh giá lại hiệu quả dự án làm căn cứ xem xét bổ sung nguồn tài chính triển khai dự án. Thứ hai là khơi nguồn tài chính, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ về tài chính để dự án về đích”.