Dòng sông tuổi thơ
Quê tôi có con sông Hương bề ngang chưa đầy hai trăm mét khi nước ròng, chảy ven làng tôi - làng Hương Đại (nay là thị trấn Thanh Hà, Hải Dương). Dòng sông ấy là tuổi thơ tôi đấy, con nước vơi đầy đã nuôi chúng tôi lớn lên...
Làm sao quên được những ngày hè chăn trâu, đi đánh dậm, úp nơm về là lũ chúng tôi lại hò nhau tắm mát ở bến đò Hương - “hải cảng” quan trọng bậc nhất quê tôi, nơi “xuất, nhập khẩu” mọi thứ hàng của cả huyện. Mùa vải thiều đến, trên bến dưới thuyền tấp nập những chiếc thuyền buồm gỗ (bấy giờ hiếm ô tô lắm) chất đầy vải thiều. Vải xếp đầy bờ sông đỏ rực. Chúng tôi vừa bơi, vừa chén vải thiều mà các chú thủy thủ trên tàu ném cho.
Sông quê tôi nước ngọt dù vùng đất này giáp với Kiến An, Tiên Lãng (Hải Phòng) là nơi đã có nước lợ và từ sông Hương ra đến cửa biển chẳng bao xa. “Đã là con mẹ, con cha/Thì sinh ở đất Thanh Hà, xứ Đông”. Đúng là ông Trời đã rộng ban cho quê tôi nhiều sản vật, nào là vải thiều Thúy Lâm, bưởi Lập Lễ, cam, chanh, quýt, chè xanh…
Ngày ấy sông, bãi quê tôi nhiều thủy sản tự nhiên lắm, nào chép, trôi, mè, trắm đen, trắm trắng, rói (chầy), trạch chấu, nhệch (chình), bống đen, bống trắng…, cua, cáy, cà ra, rạm, tôm đồng… thôi thì chẳng thiếu thứ gì. Người ta bắt được ba ba bò vào đẻ trong thùng trấu (đắp bằng đất trong bếp, để trấu, rạ, củi…) hay ở gốc chuối trong vườn là thường.
Nói đến chuyện “mưu sinh tôm cá” lúc thiếu thời có mà kể cả ngày, giờ tôi chỉ xin kể chuyện bắt rươi, ăn rươi.
Mưa “nứt lỗ rươi”, làng “trẩy hội”
Âu cũng là trời phú, quê tôi là vùng nước ngọt gần biển mà nghe các cụ bảo chỉ có những vùng như thế mới có nhiều rươi. Từ lúc biết bưng bát cơm ăn tôi đã được ăn rươi và vẫn nhớ cảm giác sờ sợ nhìn thấy rổ rươi lần đầu: con thì đỏ hồng, vàng vàng, xanh xanh, bàng bạc với hai hàng tua hai bên thân trông như con sâu.
Thật ra rươi rất lành, không gây cả chút ngứa vì nó chỉ là “sâu đất” - các cụ vẫn gọi thế. Các cụ bảo “sâu đất” chỉ chui lên vào cuối năm âm lịch, còn suốt năm tịnh không thấy mặt. Nghe mẹ tôi nói “tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”, trong hai ngày đó thế nào cũng có rươi. Lớn lên tôi biết thêm, ngoài hai ngày này, phụ thuộc vào nước triều, rải rác trong những tháng cuối năm, đôi khi tháng tám, tháng giêng, tháng hai cũng có rươi nhưng thường là ít.
Khoa học thì bảo rươi nổi là mùa sinh sản. Rươi “mẹ” tự đứt thành những đoạn hữu tính. Các đoạn hình thành đầu, đuôi và chứa đầy trứng hay tinh trùng nên mập mạp. Chúng chui khỏi đất, giao hoan trong nước và phóng trứng, tinh để thành ấu trùng cho mùa sau… Những ngày rươi nổi phải có con nước, trời thường se lạnh nhưng không rét buốt, đôi khi khá ấm, thường mưa bay lất phất đôi khi hơi nặng hạt, các cụ bảo là mưa “nứt lỗ rươi”.
|
Những ngày có rươi, khắp làng thơm phức mùi rươi rán. (Ảnh minh họa/Nguồn ảnh: CTV) |
Khỏi phải nói những ngày rươi nổi, làng tôi như có hội, bỏ cả các việc khác đổ ra bãi vớt rươi. Trên mặt nước phù sa đỏ hồng, rực lên màu đỏ sẫm của rươi vì ngày ấy những con rươi to mập, màu đỏ, bơi vô định. Nhiều đám ruộng rươi đặc đến nỗi gần kín mặt nước. Theo người lớn, lũ trẻ chúng tôi cũng đi vớt rươi. Cơ hội một năm cũng chỉ vài ba lần sao mà bỏ qua được.
Khi làng hô có rươi là vớ ngay cái dứng (rổ tre nhỏ) và cái chậu thau ù té ra bãi, chao một nhát đổ ụp vào chậu, nhát được vài con, nhát vài chục con, cả mùn, rác, kệ, về nhà nhặt, miễn sao được nhiều rươi nhất, không vớt nhanh, nước ròng thì rươi sẽ chui hết vào xăm của các “địa chủ” rươi. Thường rươi lên vào chiều tối và càng về đêm thì càng nhiều, nửa đêm về sáng, triều xuống, nước trong bãi chảy ra sông, những con rươi trôi theo dòng nước và chui vào xăm (loại lưới ống mắt rất nhỏ) miệng rộng hết ngang con ngòi, dài hàng chục mét cắm sẵn, mỗi mẻ tháo dây buộc đuôi xăm đổ ra được cả thúng. Thúng tre làng tôi nếu đựng thóc phơi già, dùng ống tre gạt bằng được 20 ký, rươi còn nặng hơn, thế mà có những nhà một đêm được cả chục thúng rươi.
Mua rươi ở chợ thì đong bằng bát ăn cơm, không cân kẹo như bây giờ, nhà nghèo mua một, hai bát, nhà khá mua nhiều. Làm sao quên được những ngày có rươi, khắp làng thơm phức mùi rươi rán. Làm món này không khó nhưng mất nhiều thời gian, phải nhặt sạch mùn mằn, rửa bằng nước lạnh, đánh bằng đũa cho cả mớ rươi thành bột sền sệt, thân rươi chỉ còn xác vỏ, đánh càng kỹ càng ngon.
Gia vị đầu bảng không thể thiếu cho món chả rươi là vỏ quýt hôi tươi thái, giã nhỏ. Vỏ quýt loại này mỏng nhưng nhiều tinh dầu và thơm nhất. Thứ đến là ớt bột rồi mới đến lá lốt, thì là, hành hoa, tiêu. Nhà nào có thì đánh lẫn vào rươi mấy quả trứng gà hay vịt (trứng vịt ngon hơn), còn trộn thêm thịt lợn băm nhuyễn (thịt nạc vai là ngon nhất) vào thì quá xa xỉ. Rươi rán dậy mùi, thơm phức, làm rớt nước miếng bất cứ ai chứ nói gì lũ trẻ chúng tôi đang tuổi ăn, tuổi lớn. Ăn một miếng ngọt đến tận cùng vị giác ở cái thời quê tôi chưa nghe nói đến mỳ chính. Phần khác còn là vì rươi tươi, bắt về, bán vội, mua vội nên đâu đã có mấy con chết. Giống này cũng như cá chuối - “ăn muối còn hơn chuối chết”, bà nội tôi dạy thế.
Bây giờ có cả “công nghệ” đông lạnh rươi trong hộp xốp để chuyển đi xa. Lời lãi khiến người ta trộn vào rươi quá nhiều thịt và cả bột nữa. Chỉ mong ai đó đừng quá vì lợi mà làm mang tiếng cái món từ tinh hoa trời đất này.
|
Gia vị đầu bảng không thể thiếu cho món chả rươi là vỏ quýt hôi tươi thái, giã nhỏ. (Ảnh minh họa/Nguồn ảnh: CTV) |
Nước mắm chấm rươi pha như chấm nem nhưng mặn hơn một chút (có người thích chấm mắm nguyên) và phải có thêm chút lá lốt, thì là thái rất nhỏ. Bây giờ bận rộn nên người ta chỉ hay ăn chả, ít ai nấu hay xào, kho rươi cho đủ bộ. Rươi nấu chỉ đánh qua, rươi xào và kho không đánh. Rươi nấu hay xào không thể thiếu được củ lúa mưu (củ niễng) và măng tre hóa, mà lạ măng mọc không ngon, phải là măng cành mới đúng vị. Bữa cơm rươi không thể thiếu vài củ niễng sống. Còn món mắm rươi nữa nhưng không ăn vào bữa cơm rươi mà để chấm thịt lợn luộc, thịt ba chỉ luộc chấm mắm rươi thì ăn đứt mắm tôm Huế…
Rươi thời “công nghiệp”
Mấy chục năm vất vả mưu sinh xa quê, có dịp về làng cũng chỉ nháo nhào. Những lần đi ngang bến đò xưa lại thấy bâng khuâng, buồn buồn như mất mát… Con sông đã bị ngăn ở hạ lưu, nơi nó đổ vào ngã ba Cửa Dưa bằng một cái cống lớn. Dòng sông thành một cái ao bèo tây bất động, lại thêm vỏ thuốc trừ sâu, diệt cỏ trắng đồng, bãi nên cá, tôm, cua, cáy bây giờ hiếm lắm, đỉa cũng hiếm. Xưa, nhà tôi quanh năm ăn mắm cáy do tôi đánh dậm, mắm lưu từ năm này sang năm khác, giờ thì mẹ và các em hiếm khi có mắm cáy mà ăn. Rươi bãi làng tôi và nhiều xã được sông Hương cấp nước đã “ra đi” vì sông đâu còn phù sa và con nước.
Bây giờ cả bốn khu toàn huyện tôi chỉ còn vài xã ở khu Hà Đông và vài xã ở huyện Tứ Kỳ giáp ranh là có rươi. Xưa Thanh Hà rồi đến Tứ Kỳ nổi tiếng nhiều rươi, thì nay rươi “lùi” dần ra phía biển, hầu hết các xã huyện An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) nhiều rươi hơn và cũng chỉ những dải bãi hẹp ven sông không bị cống hóa là có rươi, nhưng không phải tất cả là rươi tự nhiên như ngày xưa nữa!
Người ta phải cải tạo những chân ruộng bãi trũng, tháo cạn nước, bắt hết tôm, cua, cáy - địch hại rươi, cày đất, rắc phân chuồng hay phân gà mục, bừa cho nhuyễn, phẳng, càng tơi xốp càng có cơ nhiều rươi. Các tháng 4, 5, 8, 9 âm lịch tháo nước triều vào ruộng để lấy ấu trùng rươi, vẫn cấy lúa nhưng cấm ngặt phân hóa học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, được lúa thì ăn, không thì thôi. Mỗi con nước lại tháo vào ruộng để rươi có thức ăn từ tự nhiên (vì thế có người bảo là nuôi rươi cũng không hẳn, mà là tạo môi trường cho rươi phát triển), phải sang năm sau mới có thể bắt đầu có thu hoạch.
Nếu khi nước ruộng cạn nhìn gốc rạ có nhiều lỗ rươi thì chắc thắng. Có điều rươi bây giờ nhiều con nhiều bé và xanh. Liệu có không khi nào rươi trở lại cái làng có thời dùng thúng đong rươi của tôi?