Huyền tích về thần Long Đỗ
Trong lịch sử nước Việt, thân thế của thần Long Đỗ chưa được làm rõ ngoài một vài ý kiến, căn cứ vào những cuốn sách như Việt điện u linh, Báo cực truyện và Giao châu kí. Theo đó, thần Long Đỗ chính là Tô Lịch, sinh thời làm quan ở Long Đỗ, tiên tổ cư ngụ ở đó đã lâu đời, dựng làng bên bờ con sông nhỏ.
Huyền thoại và lịch sử đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, hay còn gọi là Tô Lịch giang thần, Thành hoàng Hà Nội gốc không có nhiều dị bản. Tất cả những sử sách ghi lại đều cho rằng đền thờ thần Long Đỗ có liên quan mật thiết đến người được mệnh danh là nhà phong thủy Cao Biền.
Trong cuốn “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên còn ghi lại nguồn gốc và thời điểm xây dựng đền thờ thần Long Đỗ rất rõ ràng. Câu chuyện này gắn liền với Cao Biền, một viên quan Bắc triều được phái tới đô hộ nước ta ở giai đoạn cuối thời kỳ Bắc thuộc. Do triều Đường ở phương Bắc bấy giờ đã vào thời kỳ mục ruỗng, suy yếu trầm trọng nên để duy trì sự cai trị đối với nhân dân ta, quân thần Đường Hàm Thông gắng sức xây lên hình ảnh một Cao Biền đầy tài phép, đưa sang nước ta, trấn yểm mọi bề để long mạch triều Đường không bị xâm hại.
“Việt điện u linh tập” chép rằng, năm 866 Cao Biền khi ấy đã đắp xong thành Đại La bèn ra cửa Đông dạo chơi. Bỗng đâu gió nổi, mây mù, một người cao lớn mặc áo gấm cưỡi rồng ẩn hiện. Cao Biền sợ hãi, ngay lập tức nảy sinh ý định lập bùa trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mộng thấy vị thần cao lớn ấy hiện ra khoan thai nói: “Ta là tinh anh ở Long Đỗ. Nghe tin ông đắp thành nên đến chơi. Việc gì phải trấn yểm?”. Tỉnh dậy, Cao Biền bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống đất để trấn yểm. Việc vừa làm xong, một trận cuồng phong nổi lên, vàng, đồng và bùa của Cao Biền bị đánh tan thành tro bụi. Cao Biền hoảng hồn, than thở “Ta phải về phương Bắc mất thôi!” rồi lập tức cho người lập đền thờ thần Long Đỗ. Quả nhiên, sau đó ít lâu Cao Biền bị triệu về cố quốc và phải chết tức tưởi.
Trong thời Bắc thuộc, các thứ sử, thái thú khi đắp thành, trị nhậm vùng Long Đỗ đều phải cầu khấn, xin phép ngài. Ngài đã từng hiện lên phá nát đàn trấn yểm của Cao Biền khiến Cao Biền phải thở than và trở về Bắc quốc. Thần hiệu của thần thời Lý phong là Quốc đô Thành hoàng Đại vương. Nhà Trần gia phong là Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thành hoàng Đại vương. Kết quả kết hợp Thần và Phật trong thờ tự để làm nên tên gọi Bạch Mã linh từ chắc diễn ra ở đầu thế kỉ XI, khi xây dựng kinh thành Thăng Long.
Ngựa trắng được thờ trong điện. |
Đền Bạch Mã – Đông trấn Thăng Long
Theo cuốn Việt sử giai thoại của nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần, tương truyền khi Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư đến Đại La, đổi tên là Thăng Long. Sau khi dời đô ra Thăng Long, để tiện việc phòng bị giặc giã, Lý Công Uẩn, vị vua khai sáng triều Lý bắt tay ngay vào việc đắp luỹ xây thành. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là thành xây đến đâu, dù gia cố thế nào cũng vẫn bị sụp đổ. Thấy việc dựng thành gặp khó khăn, Vua Lý Thái Tổ bèn tới đền thờ thần Long Đỗ - được dân gian coi là thần cai quản chốn Đại La – cầu đảo, xin được phù trợ. Đêm đó, Nhà Vua nằm mộng thấy thần Long Đỗ nói rằng, cứ theo dấu chân ngựa mà đắp thì thành tất sẽ vững vàng. Thần vừa dứt lời, một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, thủng thẳng bước từ hướng Tây, rẽ qua hướng Đông một vòng rồi lại biến mất vào trong đền.
Hôm sau, Lý Thái Tổ cho đắp thành theo dấu chân bạch mã trong giấc mộng. Quả nhiên, thành Thăng Long không bị lún sụt nữa. Nhà Vua cảm kích trước sự phò trợ của thần Long Đỗ bèn ban sắc phong thần làm Quốc đô Định bang Thành hoàng Đại vương, lại cho tạc một bức tượng ngựa trắng để thờ trong đền và đặt tên cho ngôi đền thờ thần Long Đỗ thành Bạch Mã linh từ (đền thiêng Ngựa Trắng).
Hiện tại đền có 13 hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch Mã, ngoài ra còn nhiều hiện vật có giá trị khác như Cỗ Long ngai có hàng chữ ghi tên vị thần được thờ chính, ở đây là “Long Đỗ Thần quân quảng lợi Bạch Mã Đại vương”, bức hoành phi “Đông trấn linh từ”.
Đến đời Lý Thái Tông, Nhà Vua cho mở phố chợ về Cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát tới bên đền, rất huyên náo. Vua muốn dựng đền ra một chỗ khác song lại nghĩ rằng một ngôi đền cổ không nên dời đi, bèn sửa sang lại đền liền với các nhà ngoài phố, riêng để một ngôi nhà bên trong làm nơi thờ thần. Đêm đến, thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ, duy chỉ đền thờ thần là nguyên vẹn. Vua Thái Tông lấy làm lạ hỏi, có người biết, tâu rõ việc hiển linh của thần từ trước. Vua mừng nói: “Đó thật là vị thần coi việc nhân gian”.
Thấy đền linh thiêng, là nơi có thể dựa vào để bảo vệ dân, giữ nước, Đức Vua đã xuống chiếu cho sửa lễ tế đền và đặt lệ mỗi năm cứ đầu mùa xuân lại đến làm lễ cầu phúc cho dân an hưởng thái bình, đất nước vững bền, thịnh trị. Ông cũng sắc phong thần là Quảng Lợi vương.
Một điều lạ lùng mà rất nhiều sử sách ghi lại, thậm chí Thái sư Trần Quang Khải cũng đã từng làm thơ nói về vấn đề này là sự trường tồn cùng thời gian của đền Bạch Mã. Theo đó, dù xung quanh đền đã phải hứng chịu tới 3 cuộc hỏa hoạn lớn nhưng đền đều… vô can. Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bom B52 rải thảm ở miền Bắc, mọi thứ xung quanh đền đều bị tàn phá, riêng ngôi đền Bạch Mã vẫn uy nghi, vững chãi. Trong lịch sử, từng có bài thơ của Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải với 2 câu tỏ ý kinh ngạc trước sự linh thiêng của đền Bạch Mã như sau: “Lửa bốc ba lần không cháy đến/Gió lừng một trận chẳng hề nghiêng!”.
Có thể thấy, khí phách linh diệu của tinh thần dân tộc mấy nghìn năm được thể hiện qua những lần thần Long Ðỗ - Bạch Mã che đỡ cho oai phong đất Rồng chống lại các thế lực hắc ám, mưu toan nô dịch hoặc cản phá sự dựng xây kinh đô Ðại Việt, còn tài tình hiển hiện trong ba lần hỏa tai mà đều phải khựng lại lại càng chứng tỏ được vị thế “tứ trấn Thăng Long” của đền Bạch Mã./.