- Qua theo dõi chúng tôi thấy trong đăng ký kết hôn (ĐKKH) có yếu tố nước ngoài thì bất cập chủ yếu xảy ra giữa phụ nữ Việt Nam kết hôn với nam giới Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, để lại nhiều hậu quả rất đau lòng như hàng loạt vụ việc vừa qua tại Hàn Quốc. Trong những năm qua, áp dụng Nghị định 69 sửa đổi, bổ sung Nghị định 68, việc ĐKKH ở trong nước nói chung là rất chặt chẽ, loại bỏ nhiều trường hợp kết hôn không lành mạnh, không phù hợp với phong tục tập quán…
Tuy nhiên, vấn đề phát sinh là khi mình thắt chặt thủ tục ĐKKH ở trong nước thì đương sự chuyển sang ĐKKH ở nước ngoài. Chẳng hạn, tại Hàn Quốc, thủ tục rất đơn giản là phụ nữ Việt Nam chỉ cần gửi giấy tờ tùy thân sang Hàn Quốc để người đàn ông ĐKKH vắng mặt, trong khi chưa hiểu biết gì về chồng, nhân thân của người chồng, hoàn cảnh gia đình nhà chồng, càng không biết gì về pháp luật, phong tục tập quán, văn hóa của đất nước người chồng tương lai sinh sống.
Phỏng vấn – chuyển sang tiền kiểm
- Dư luận cho rằng mặc dù đã siết chặt thủ tục ĐKKH trong nước nhưng khâu phỏng vấn lại rất lỏng lẻo, đúng không thưa ông?
- Về thủ tục phỏng vấn, quy định pháp luật không hề bất cập mà bất cập do trình độ của cán bộ làm công tác hộ tịch, nhất là ở địa phương. Việc phỏng vấn hiện vẫn được hầu hết các nước áp dụng, không chỉ hộ tịch, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác. Cán bộ phỏng vấn của họ có quyền đề xuất cơ quan cấp trên trực tiếp giải quyết hay không. Và một điều quan trọng là trong trường hợp không đồng ý giải quyết cũng không bắt buộc cán bộ phỏng vấn phải trả lời nguyên nhân cho đương sự sau phỏng vấn. Tất nhiên, các nước có điều kiện, cán bộ có trình độ, thi hành công vụ một cách nghiêm túc, không hạch sách này khác, đồng lương, chế độ đãi ngộ xứng đáng.
Theo tôi, việc phỏng vấn là cần thiết nhưng để thực hiện nó thì đòi hỏi cán bộ phải có trình độ, phải công tâm, vô tư, khách quan… Nếu cán bộ không có trình độ dẫn đến máy móc, hỏi mà không biết mục đích, không biết đương sự trả lời đúng hay sai vì phỏng vấn người nước ngoài phải thông qua phiên dịch; nếu không công tâm dễ dẫn đến tiêu cực. Nhiều địa phương yêu cầu Bộ hướng dẫn nội dung, câu hỏi phỏng vấn, thậm chí có đáp án nhưng điều đó là không tưởng, cứng nhắc.
- Theo ông phải sửa đổi như thế nào?
- Việc phỏng vấn vẫn phải áp dụng vì phù hợp với xu thế chung, hơn nữa chỉ căn cứ trên giấy tờ thì không thể đánh giá được một cách thực sự quan hệ hôn nhân thực tế. Nhưng đối với trường hợp ĐKKH ở Hàn Quốc mà một bên vắng mặt như tôi vừa nêu trên thì quy định hiện tại là sau khi ĐKKH tại Hàn Quốc, đương sự chuyển giấy tờ về Việt Nam để trong nước làm thủ tục phỏng vấn rồi mới công nhận, ghi chú. Như vậy là làm sau, là hậu kiểm. Gặp trường hợp không công nhận sẽ dẫn đến những điểm bất hợp lý về mặt đối ngoại, về tình trạng pháp lý của người phụ nữ.
Vì thế, dự kiến sẽ chuyển phỏng vấn lên trước, tức là trước khi công dân Việt Nam ở trong nước muốn ĐKKH với người nước ngoài, cụ thể như Hàn Quốc thì phải làm thủ tục phỏng vấn tại Việt Nam, được đánh giá là cuộc hôn nhân hoàn toàn lành mạnh, hợp pháp rồi Sở Tư pháp mới cấp giấy xác nhận chuyển sang nước ngoài.
- Việc cấp giấy xác nhận này có “đẻ” thêm thủ tục nào nữa không?
- Đây chỉ là chuyển thủ tục phỏng vấn sau lên trước, từ hậu kiểm sang tiền kiểm, chứ hoàn toàn không thêm bớt một thủ tục nào cả!
Sẽ quy định mức phí rõ ràng
- Đặt ra thủ tục, xác định được thủ tục là đúng thì chúng ta phải tổ chức thực hiện. Nhưng chung quy vẫn lại quay về câu chuyện kinh phí?
- Đúng vậy! Muốn thực hiện tốt thủ tục, đòi hỏi chúng ta đầu tư cán bộ thực hiện, thiếu phải bổ sung, yếu phải đào tạo, bồi dưỡng và đầu tư điều kiện, phương tiện làm việc. Tuy nhiên, tôi cho rằng có những lĩnh vực Nhà nước có trách nhiệm thực hiện cho dân (không thu tiền), song có lĩnh vực như kết hôn chẳng hạn thì Nhà nước phải thu tiền, Nhà nước không thể đầu tư bộ máy, cơ sở vật chất, kinh phí… để “kết duyên” cho cá nhân (thuộc về dân sự) mà không thu bất cứ một khoản nào.
- Mức phí giải quyết ĐKKH có yếu tố nước ngoài ở mỗi tỉnh hiện nay là khác nhau. Nên chăng cần có hướng dẫn thống nhất từ Trung ương?
- Đúng là địa phương phản ánh rất nhiều về vấn đề này nên tới đây, chúng tôi sẽ làm việc với Bộ Tài chính để thống nhất quan điểm. Theo đó, sẽ nghiên cứu xây dựng chế độ tài chính rõ ràng, cụ thể là được thu khoản gì, bao nhiêu là phù hợp, ai đóng…
Tránh chuyện “nông dân trở thành giám đốc nông trường”
- Đấy chỉ là cải cách về thủ tục nhưng điều quan trọng hơn là đã có giải pháp nào được tính toán để những việc đau lòng không còn xảy ra, thưa ông?
- Trong quá trình sửa đổi Nghị định 68, Nghị định 69, chúng tôi thấy rằng bước vào cuộc sống hôn nhân thì về phía phụ nữ Việt Nam (kể cả nam giới nước ngoài) phải được tư vấn đầy đủ, được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật hôn nhân gia đình, phong tục tập quán, văn hóa của nước mà người chồng tương lai của mình sinh sống, tránh tình trạng anh chồng là nông dân nhưng sang Việt Nam được giới thiệu là giám đốc nông trường.
Cụ thể là củng cố các trung tâm tư vấn và hỗ trợ kết hôn của Hội Liên hiệp phụ nữ các tỉnh, thành hiện đang hoạt động èo uột, trao cho các trung tâm một địa vị pháp lý, thẩm quyền rõ ràng hơn. Dự kiến, sẽ yêu cầu tất cả các cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài đều phải qua Trung tâm này. Nếu làm được như vậy, tôi nghĩ sẽ tạo được bước chuyển mình mạnh mẽ, người phụ nữ không còn rơi vào tình trạng “nhắm mắt kết hôn”.
- Theo ông, liệu ngành Tư pháp sẽ “gánh vác” được tới đâu?
- Sửa đổi Nghị định 68 và 69 hay xây dựng Luật Hộ tịch mà chúng tôi được giao chủ trì rõ ràng chỉ là “phần ngọn” của vấn đề. Trong khi cái gốc là những vấn đề xã hội khác như công ăn việc làm, được học hành, có thu nhập, nhất là các cô gái ở đồng bằng sông Cửu Long, nếu cuộc sống không quá khó khăn chắc họ đâu cần xuất ngoại để đổi đời. Vì vậy, rất cần sự vào cuộc của các Bộ ngành liên quan, các cấp chính quyền…
- Xin cảm ơn ông!
Hoàng Thư (thực hiện)