Quy trình xả lũ “ưu tiên” thủy điện hơn hạ du
Ông Huỳnh Vạn Thắng, nguyên Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Đà Nẵng, chuyên gia dự án thiên tai cộng đồng của Ngân hàng Thế giới và Bộ NN&PTNT cho biết, công trình TĐ được thiết kế với độ đảm bảo an toàn công trình rất cao. Phần lớn tần suất thiết kế này có thấp nhất cũng đạt Ptk = 0,5%, có thủy điện với tần suất P = 0,1%. Điều này có nghĩa, sau 200 năm (với 0,5%) hoặc 1.000 năm (với 0,1%) mới xảy ra 1 trận lũ có khả năng gây mất an toàn công trình.
Thế nhưng trên thực thế, rất nhiều TĐ mới chỉ vài năm đi vào hoạt động mà đã vận hành xả nước với trường hợp lũ gây mất an toàn công trình, đã gây thiệt hại nặng nề về tính mạng và đời sống của người dân ở hạ du. “Sau khi nghiên cứu, chúng tôi thấy TĐ đã lộ diện điểm yếu, đó là bước vận hành giảm lũ cho hạ du với quy trình luôn đặt nguy hiểm thường trực cho hồ nếu gặp lũ lớn”, ông Thắng nói.
Ông Thắng phân tích, khi xuất hiện lũ lớn hoặc lũ đặc biệt lớn, ngay lập tức mực nước hồ sẽ vượt mực nước dâng bình thường lên mực nước gia cường (mực nước giới hạn cao nhất của hồ), gây mất an toàn hồ đập. Lúc này chủ đầu tư, bắt buộc phải chuyển sang chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình, đột ngột xả nước để cứu công trình, tránh vỡ đập gây thảm họa cho hạ du. Thiệt hại do hạ du chính là lũ về quá mạnh và quá nhanh, tăng cao đột ngột nên chính quyền và người dân hạ du sẽ không kịp ứng phó. Như vậy, quy trình đã đặt nặng vấn đề lợi ích của thủy điện mà ít chú ý đến an toàn ở hạ du.
Đối với lũ nhỏ và lũ vừa không được phép điều tiết cắt giảm vì lợi lích của lũ nhỏ, lũ vừa đem lại cho hạ du rất lớn: cung cấp, bổ sung phù sa, cân bằng hệ sinh thái đồng rộng, diệt sâu hại, dịch bệnh, chuột, giảm phân bón, hóa chất trừ sâu bệnh gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước. Đối với lũ lớn cần được điều tiết cắt, giảm nhưng quy trình này lại không làm được.
“Để hạn chế việc xả lũ bất ngờ gây thiệt hại nặng cho hạ du, theo tôi, cần thay đổi theo hướng khi có lũ phải mở hết cửa tràn sâu để hồ tự điều tiết lũ. Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp, nghiên cứu, xem xét lại trình Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy trình cho hợp lí với nguyên tắc ưu tiên cho hạ du vì đó là tính mạng, tài sản của nhân dân”, ông Thắng đề xuất.
Trữ nước đầy nên “trở tay không kịp”
Trong khi đó, GS-TSKH Nguyễn Thế Hùng, giảng viên Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, chuyên gia nghiên cứu về TĐ, thủy lợi lâu năm tại Việt Nam cho rằng, hiện nay nhiều TĐ hầu hết thu nhận kỹ sư điện nhưng còn xem nhẹ kỹ sư thủy lợi, vai trò thủy lợi còn bị mờ nhạt.
Bên cạnh đó, do TĐ coi trọng lợi ích kinh tế, hàng năm ký kết với đối tác, lo sợ thiếu nước nên TĐ phải lo trữ cho đầy hồ; trong khi công tác dự báo mưa lũ chưa nắm hết nên đến khi lũ lớn, trở tay không kịp đành phải xả nước gấp không tính đến sự nguy hiểm cho hạ du TĐ.
“Đúng ra phải nắm công tác dự báo, tính toán cho thật kỹ lượng nước sẽ tập trung vào hồ, lên kịch bản xả lũ trước; nhưng có không ít TĐ không chịu làm động thái đó, cứ trữ nước đầy hồ, chờ “nước đến chân mới nhảy”. Có nghĩa khi lũ lớn về hồ, mới gấp rút xã nước. Từ đó mới sinh “lũ chồng lũ” ở hạ lưu.
Mặt khác do cơ chế, chưa có cơ quan nhà nước nào bắt buộc và kiểm tra việc làm này, nên cũng chẳng có mấy chủ hồ thực hiện nghiêm chỉnh, kéo theo TĐ chủ quan. GS Hùng kiến nghị: “Để đảm bảo xả nước đúng cần có hệ thống giám sát chặt chẽ tại các tràn xả nước, có camera, đồng hồ giờ, đại diện chính quyền, người dân tham gia giám sát. Yêu cầu các TĐ bố trí các điểm đo mưa, lưu lượng trong lưu vực hồ cho hợp lý, lập qui trình xả nước, xây dựng các kịch bản lũ đến và xả nước,… để đảm bảo lũ xả về hạ lưu TĐ phải nhỏ hơn lượng nước về hồ TĐ.
Tăng cường kỹ sư thủy lợi giỏi, coi trọng vai trò thủy lợi hơn nữa. Điều cốt yếu nữa, phải tăng cường bảo vệ rừng để điều tiết lũ tốt, luật pháp phải nghiêm trị những kẻ phá rừng; đây cũng là trách nhiệm của người dân, đoàn thể; ngành Điện cần phải minh bạch, tránh độc quyền, nếu không nó sẽ gây ra vô vàn việc làm sai trái khác nữa”.
Nói về xu hướng tương lai, GS Hùng nhìn nhận: “Xu hướng năng lượng sạch như gió, thủy triều, khí (đang thăm dò) và một số năng lượng khác để thay thế một số nhà máy điện truyền thống (như than). Còn với TĐ không nên phát triển nhiều nữa vì các vị trí xây dựng TĐ tốt đã làm hết rồi".
Thiệt hại 1.000 tỷ đồng
Ngày 9/11, Chi cục Phòng chống thiên tai khu vực miền Trung - Tây Nguyên tại Đà Nẵng đã có báo cáo tổng thiệt hại do đợt mưa lũ vừa qua tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên lên đến hơn 1.080 tỉ đồng. Thiệt hại về người tính đến ngày 9/11 có 15 người chết, 6 người mất tích, 20 người bị thương.
Hiện tại, tình trạng ngập lụt ven sông và các vùng trũng thấp ở tỉnh Đắk Lắk vẫn tiếp diễn. Trong ngày 9/11, vẫn còn một số hồ chứa thủy điện vừa và lớn trong khu vực đang vận hành xả lũ gồm: A Lưới: 123,67/62,31m3/s; thủy điện Sông Tranh 2: 707,21/69,68m3/s; Sông Bung 4: 269.56/58.72m3/s; sông Ba Hạ: 52,97/786,13m3/s; Sông Hinh: 594,25/244,64m3/s; Buôn Tua Srah: 313,93/60,93m3/s; Srêpốk 3: 682,72/262,05m3/s; Buôn Kuốp: 91,05/257,53m3/s.