Hiện nay, có tình trạng doanh nghiệp nhập khẩu xe vừa chở hàng, vừa chở người rồi khai báo thành các xe chở chứng từ có giá để “lách” thuế, tuồn ra thị trường sử dụng như một xe chở người gây thất thu thuế cho Nhà nước, gây bất công cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong nước về các dòng xe này, làm tăng giá hàng sản xuất trong nước, đi ngược lại với chủ trương của Chính phủ về hỗ trợ sản xuất trong nước.
Để xảy ra tình trạng trên, có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính và chủ yếu vẫn là những mâu thuẫn, vướng mắc trong quy định pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) về xe ô tô nói chung và xe ô tô chở tiền nói riêng. Đây cũng là vấn đề mà chúng tôi trao đổi với Luật gia, TS Trần Minh Sơn (Bộ Tư pháp) - Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương (PIAC).
* Thưa ông, đâu là những vướng mắc pháp lý đối với dòng xe ô tô chở tiền và bất hợp lý trong việc kê khai và nộp thuế?
- Luật gia, TS Trần Minh Sơn: Theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7271: 2003, ô tô chở tiền thuộc danh mục ô tô chở hàng khác (ô tô có kết cấu và trang bị chủ yếu dùng để chở hàng). Sở dĩ, có sự phân loại này là bởi vì ban đầu xe chở tiền chủ yếu được sản xuất trên khung xe cơ sở là xe tải thông dụng. Đối tượng sử dụng chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có nhu cầu chuyên chở số lượng tiền mặt lớn. Nhưng trên thực tế theo nhu cầu thị trường, sau này xe chở tiền được sản xuất từ 3 loại xe cơ sở khác nhau như: (i) xe ô tô chở tiền hay xe ô tô thiết kế chở tiền là loại xe ô tô được lắp đặt thêm két sắt; (ii) xe chở tiền sản xuất từ xe ô tô tải và xe bán tải; (iii) xe chở tiền sản xuất từ xe con dưới 9 chỗ (thường là loại SUV 7 chỗ).
TS Trần Minh Sơn. |
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, xe chở tiền sản xuất trên nền xe con chiếm số lượng lớn và được sử dụng chính trong hệ thống ngân hàng thương mại, xe chở tiền trên nền xe tải và xe bán tải chiếm số lượng nhỏ hơn được Ngân hàng Nhà nước sử dụng là chính.
Trước thời điểm có hướng dẫn của Công văn số 65/BTC-CST ngày 3/1/2013 của Bộ Tài chính, việc kê khai và nộp thuế TTĐB đối với xe chở tiền (chủ yếu là loại sản xuất từ xe con) không thống nhất, cơ bản là các nhà nhập khẩu kê khai và nộp thuế ở mức 0%. Sau thời điểm 3/1/2013 có hướng dẫn của Công văn 65/BTC-CST của Bộ Tài chính, việc kê khai nộp thuế đối với các loại xe chở tiền sản xuất trên nền xe con và xe bán tải (pick up và Van) là 15% (áp dụng cho xe vừa chở người vừa chở hàng thuế suất quy định mục 4d Điều 7 Luật Thuế TTĐB), xe chở tiền sản xuất trên nền xe tải là 0%.
Khi kê khai lệ phí trước bạ đối với xe ô tô chở tiền, thực tế cho thấy có địa phương tính là xe chở người, có địa phương tính là xe tải và có địa phương tính là xe bán tải. Trong khi đó, quy định pháp luật về thuế trước bạ không có khái niệm xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng và có dẫn chiếu đến các khái niệm xe pick up và xe Van tương đồng với TCVN7271. Ngoài ra, việc đánh đồng 2 loại xe trên vào một loại vừa chở người, vừa chở hàng để nộp thuế ở mức thuế suất điểm 4d Điều 7 Luật Thuế TTĐB sẽ gây ra hệ lụy nghiêm trọng như sau:
Thứ nhất, làm giảm hiệu lực pháp lý, tính nhất quán, công bằng của các văn bản quy phạm pháp luật. Cùng một loại hàng hóa xe chở tiền sản xuất trên nền xe con, có đơn vị nhập khẩu tự đối chiếu tính năng thì áp dụng thuế suất điểm 4a Điều 7 Luật Thuế TTĐB, có những đơn vị hiểu sai hoặc cố tình không đối chiếu, cố tình khai báo thuế ở mức thuế suất thấp thậm chí là kê khai dạng xe tải chở hàng loại khác để trốn hoàn toàn thuế TTĐB.
Thứ hai, Luật Thuế TTĐB nhằm điều tiết sử dụng (kể cả trong sản xuất và tiêu dùng, không phân biệt người sử dụng) những mặt hàng đắt tiền, xa xỉ không cần thiết hoặc gây hại. Nhưng với việc nộp thuế xe chở tiền sản xuất trên nền xe con và xe bán tải (pick up và Van) như nhau, dẫn đến người sản xuất và người tiêu dùng ưu tiên sử dụng xe con (hàng xa xỉ, có nhiều chức năng để chở người) để sản xuất xe chở tiền thay vì dùng xe bán tải (thiết thực và phù hợp chức năng chở hàng). Hơn nữa, vì phải nộp thuế TTĐB thấp nên giá thành xe con chở tiền thấp hơn xe con thông thường, trong khi xe chở tiền loại này có mẫu mã, tiện nghi không khác gì xe con chở người nên người sử dụng lạm dụng xe chở tiền vào các mục đích không phải chở tiền (hàng) mà chở người là chính.
Thứ ba, xe chở tiền sản xuất trên nền xe con có số lượng tiêu thụ hàng năm hiện nay tương đối lớn (khoảng 1.000 xe/năm). Đối tượng sử dụng phần lớn là hàng trăm ngân hàng cổ phần thương mại, tổ chức tín dụng thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, các đối tượng này là những đơn vị kinh doanh có lãi, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ thuế và đóng góp cho xã hội. Chênh lệch giữa hai dòng thuế suất là khá lớn (30-45%), nếu kê khai, nộp thuế sai, Nhà nước bị thất thu thuế, thậm chí nguồn tiền này chảy vào túi các nhà nhập khẩu hoặc các nhà sản xuất nước ngoài không giúp gì cho phát triển kinh tế đất nước.
Thứ tư, nếu việc kê khai, nộp thuế không đúng này tồn tại như một tiền lệ xấu, tạo kẽ hở để các đơn vị nhập khẩu đặt hàng sản xuất các loại xe vừa chở hàng, vừa chở người khác có kết cấu tương tự (có 5 chỗ ngồi, có vách ngăn khoang chở người và chở hàng nhưng không đạt chuẩn quy định, cụ thể là diện tích và tải trọng rất nhỏ, chỉ để làm hình thức) rồi khai báo thành các xe chở chứng từ có giá (chứng chỉ góp vốn, giấy tờ nhà đất…), chở vàng bạc kim cương, chở thư tín, chở điện thoại di động đắt tiền… để lách thuế, tuồn ra thị trường đủ mọi thành phần kinh tế sử dụng như một xe chở người.
Xe ô tô chở tiền. (Ảnh minh họa) |
Thứ năm, gây bất công giữa đơn vị sản xuất hàng hóa trong nước với đơn vị kinh doanh hàng nhập khẩu, trợ giá cho hàng nhập khẩu và làm tăng giá hàng sản xuất trong nước, đi ngược với chủ trương hỗ trợ sản xuất trong nước của Chính phủ. Xe chở tiền sản xuất trong nước sử dụng xe thương mại (nhập khẩu hoặc sản xuất trong nước) là nguyên liệu đầu vào là xe ô tô con để sản xuất xe chở tiền, mà xe ô tô con đã nộp thuế TTĐB ở mức cao (50-60%), hiện nay chưa có cơ chế hoàn thuế TTĐB nên phải tính vào giá thành sản xuất, kết quả là xe trong nước có giá sản xuất cao hơn nhập khẩu vì phải chịu thuế cao hơn.
Trong khi đó, xe nhập khẩu chỉ kê khai và nộp thuế TTĐB với xe vừa chở người vừa chở hàng ở mức thấp (15%-25%). Lợi dụng kẽ hở pháp luật này, các nhà sản xuất mở xưởng đóng xe chở tiền trên nền xe con ở nước ngoài (Thái Lan, Indonesia) rồi nhập khẩu về Việt Nam, vừa đem công ăn việc làm, lợi nhuận ra nước ngoài vừa không đáp ứng được nhu cầu kịp thời, nhỏ lẻ của người sử dụng (vì hàng nhập khẩu phải đặt hàng với số lượng đủ lớn và thời gian tối thiểu 6 tháng).
* Vậy theo ông, cần có giải pháp khắc phục ra sao?
- Luật gia, TS Trần Minh Sơn: Để luật pháp được áp dụng nhất quán cho cùng một đối tượng và trên mọi lĩnh vực (kỹ thuật, tài chính), giúp các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước hiểu đúng và áp dụng đúng pháp luật, tránh tình trạng lợi dụng quy định pháp luật không rõ, dẫn đến tình trạng: thất thu ngân sách nhà nước, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hàng nhập khẩu mà bóp nghẹt hàng sản xuất trong nước, nhất là trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế xã hội hiện nay, tôi đề nghị:
Thứ nhất, Bộ Khoa học và Công nghệ cần có văn bản hướng dẫn phân loại cụ thể các xe chở tiền hoặc chở các mặt hàng chuyên dụng khác (vàng bạc, thư tín…) được sản xuất, hoán cải trên nền 3 loại xe: i) xe con chở người; ii) xe pick up và Van chở hàng; iii) Xe tải thông dụng tương ứng là 3 loại xe: i) van chở người; ii) xe Pick up và Van chở hàng; iii) Xe chở hàng khác.
Thứ hai, Bộ Tài chính cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về xe vừa chở người vừa chở hàng quy định trong Luật Thuế TTĐB là “loại ô tô chở người hoặc ô tô tải có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng, có tỷ lệ tải trọng người/tải trọng hàng nằm trong giới hạn từ 1.25-1.8 theo tiêu chuẩn quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ quy định”. Có văn bản hướng dẫn việc khấu trừ, hoàn thuế TTĐB đối với các loại hàng hóa mà có hàng hóa đầu vào chịu thuế suất TTĐB cao hơn thuế xuất đầu ra, tương tự như cơ chế khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng hiện nay.
Thứ ba, Tổng cục Hải quan cần hướng dẫn, cảnh báo các đơn vị nhập khẩu nghiêm túc tự đối chiếu đặc tính kỹ thuật của xe nhập khẩu với tiêu chuẩn quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành để xác định loại xe của mình có đủ điều kiện được nộp thuế theo quy định mục 4d, 4g Điều 7 Luật Thuế TTĐB hay không? Đối với những loại xe khai báo và nộp thuế theo mục 4d, 4g Điều 7 Luật Thuế TTĐB cần tăng cường hậu kiểm, tập trung kiểm tra tải trọng và diện tích khoang chở hàng có đạt tiêu chuẩn không? Xử phạt nghiêm minh và công khai những đối tượng gian lận cố tình nhập về các loại xe vừa chở người, vừa chở hàng trá hình (chở người là chính, chở hàng chỉ là hình thức) nộp thuế ở mức thấp nhưng tiêu thụ, sử dụng làm xe con chở người.
* Xin cảm ơn ông!