ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải quyết liệt trong cải cách thể chế, pháp luật

(PLVN) -Trước giờ khai mạc Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Đổi mới tư duy xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” nhiều ý kiến tâm huyết đã được gửi tới diễn đàn. Báo PLVN xin trích đăng một số ý kiến chuyên gia, nhà khoa học.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải quyết liệt trong cải cách thể chế, pháp luật

*GS.TS. Lê Văn Lợi - Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Tập trung lãnh đạo công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật

Phải tập trung lãnh đạo công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; bảo đảm mỗi dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và thể chế hóa kịp thời, toàn diện, đầy đủ những quan điểm, đường lối đó.

GS.TS. Lê Văn Lợi - Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

GS.TS. Lê Văn Lợi - Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Cụ thể, cần đổi mới quy trình cho ý kiến của Bộ Chính trị trong xây dựng các đạo luật. Quy trình này gồm 2 bước. Bước thứ nhất là khi dự án được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Đây là bước có ý nghĩa hết sức quan trọng, có vai trò “hoạch định chính sách” của dự thảo văn bản. Là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật, chuyển hóa, “dịch” chính sách thành các điều khoản, quy phạm cụ thể. Bước thứ hai, khi dự án đã được các cơ quan của Quốc hội cho ý kiến trước khi trình ra Quốc hội. Ở bước này, Bộ Chính trị sẽ xem xét dự án, dự thảo văn bản đã thể chế hóa đúng tinh thần của chính sách đã được đề ra ở lần thứ nhất hay chưa.

Tiếp theo chúng ta cần đổi mới việc ban hành nghị quyết của Đảng làm cơ sở, định hướng cho hoạt động xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Bởi thực tế, nội dung và cách thức ra nghị quyết của Đảng trong những năm qua đã có sự đổi mới, nhưng chưa tương xứng với mong mỏi của các đại biểu Quốc hội. Về nội dung, có một số Nghị quyết quá cụ thể, quá chi tiết rất khó thể chế hóa thành luật, nhiều trường hợp muốn tìm phương thức điều chỉnh mới phù hợp hơn nhưng lại “đụng trần” Nghị quyết. Do đó, cần bảo đảm các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng phải xác định rõ mục tiêu tổng quát, rõ đường lối, định hướng chính trị trong một thời kỳ nhất định, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, tính khoa học, tính phù hợp và khả thi của các nhiệm vụ mà nghị quyết, kết luận, chỉ thị nêu ra.

* GS.TS Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội: Nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực, phòng chống tiêu cực và lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật

Để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực, phòng chống tiêu cực và lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Cụ thể là: Thứ nhất, kiên quyết, kiên trì bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật. Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương đường lối của Đảng, chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, quy định của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật.

GS.TS Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội

GS.TS Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội

Thứ hai, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật. Tách bạch lợi ích để tránh xung đột: phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật.

Thứ ba, tăng cường năng lực, phẩm chất của đội ngũ xây dựng pháp luật. Cần có tiêu chuẩn cao hơn đối với cán bộ tham gia xây dựng pháp luật, đặc biệt là về chuyên môn, đạo đức công vụ và ý thức trách nhiệm với lợi ích chung; phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu chống tiêu cực, lợi ích nhóm như luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, quy định trách nhiệm đến cùng của chủ thể , các chuyên gia, nhà khoa học trong xây dựng pháp luật.

Thứ năm, tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình ở tất cả các khâu trong xây dựng pháp luật.

Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội, sự tham gia của Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học vào hoạt động xây dựng pháp luật.

Thứ bảy, thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa quá trình xây dựng pháp luật: Tạo dựng hệ thống dữ liệu mở về dự thảo luật, các ý kiến góp ý, lập luận phản biện để người dân và các tổ chức có thể dễ dàng tiếp cận, giám sát.

Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp giảm thiểu tiêu cực, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật, qua đó góp phần nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển bền vững của đất nước.

GS.TS. Trần Ngọc Đường, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam:

Chính phủ phải chịu trách nhiệm chính về chất lượng đầu vào của hoạt động lập pháp

Chính sách, pháp luật của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Đối với điểm nghẽn thể chế, theo chúng tôi, trước hết là do các yếu tố “nghẽn” trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế.

GS.TS. Trần Ngọc Đường, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

GS.TS. Trần Ngọc Đường, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

Hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, chủ yếu là hoạt động lập pháp của Quốc hội (QH), các cơ quan của QH và hoạt động lập quy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ và chính quyền địa phương. Trong các hoạt động này, có những yếu tố nghẽn khiến cho chất lượng của thể chế chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, cụ thể: Nhận thức về quyền lập pháp của QH và quyền lập quy của Chính phủ chưa phù hợp, chưa thống nhất với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013; Việc phối hợp nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý các dự thảo luật sau khi đã trình ra phiên họp toàn thể của QH chưa hợp lý; Việc xem xét thông qua luật chưa được coi là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Ngoài ra, việc kiểm soát ủy quyền lập pháp chưa được quy định chặt chẽ để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lập pháp ủy quyền; bộ máy và con người làm ra thể chế còn thiếu chuyên nghiệp.

Để khắc phục các yếu tố nghẽn nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, Chính phủ phải chịu trách nhiệm chính về chất lượng đầu vào của hoạt động lập pháp, bao gồm: soạn thảo các dự án luật trình QH với chất lượng tốt nhất. Chất lượng của dự thảo luật đưa trình lần đầu tiên quyết định chất lượng của một đạo luật. Không nên chờ đợi chất lượng của dự án luật được nâng lên ở các khâu sau; chủ trì việc giải trình tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến của các cơ quan của QH và đại biểu QH; chịu trách nhiệm về chính sách đề ra trong dự thảo luật trình QH. Trong trường hợp chính sách trong dự án luật qua thẩm tra và thảo luận tại nghị trường không được QH đồng tình thì Chính phủ (chứ không phải cơ quan soạn thảo) phải giải trình, thuyết phục, kể cả bảo vệ chính sách trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), QH. Nếu cuối cùng, QH vẫn không đồng tình thì Chính phủ (chứ không phải cơ quan được giao soạn thảo) và QH (cụ thể là UBTVQH) phải cùng nhau tìm ra một phương án chính sách mới phù hợp nhất có thể để trình QH tại các kỳ họp sau.

Thứ hai, QH chịu trách nhiệm xem xét, thông qua hay chưa thông qua các dự án luật do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đưa trình với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, QH cần tập trung nhiều hơn việc thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các dự án luật; sự phù hợp của các chính sách đề ra trong các dự án luật với ý nguyện của Nhân dân; tính khả thi của các chính sách trong các dự án luật; việc ủy quyền lập pháp trong các dự án luật có đúng và phù hợp không.

Đại biểu QH, các cơ quan của QH, QH phải phân tích, bình luận, phản biện đối với các chính sách thể hiện trong dự án luật. Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đưa trình dự án luật phải giải trình, bảo vệ, lập luận, thuyết phục một cách khoa học và thực tiễn các chính sách đã đề ra trước ý kiến của các cơ quan của QH và đại biểu QH. Chỉ khi nào các lý lẽ đưa ra chưa thuyết phục được QH thì mới “phối hợp” để tìm ra phương án chính sách tối ưu nhất mà cả QH và Chính phủ đều đồng tình.

Thứ ba, phát huy vai trò của Nhân dân trong hoạt động lập pháp. Trong tất cả các giai đoạn của quy trình lập pháp cần có quy định về trách nhiệm giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng như trách nhiệm của cơ quan soạn thảo dự án luật trong việc tiếp thu ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc.

Thứ tư, sớm xây dựng được một đội ngũ cán bộ soạn thảo, thẩm định, thẩm tra chuyên nghiệp trong hoạt động xây dựng thể chế. Đối với QH, một mặt, cần nâng cao chất lượng và số lượng đại biểu QH làm việc chuyên trách tại các ủy ban và Hội đồng Dân tộc; mặt khác, cần tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, luật gia đã nghỉ hưu vào hoạt động thẩm tra, kiểm soát dự án luật trước khi QH xem xét, thông qua…

* GS.TS Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp: Xử lý đồng bộ, hài hòa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải quyết liệt trong cải cách thể chế, pháp luật; đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ to lớn và trọng đại đó, xin có một số kiến nghị sau đây:

Một là, tập trung nghiên cứu thấu đáo để có cơ sở để xử lý tốt, đồng bộ, hài hòa và hợp lý mối quan hệ lớn “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”; trên cơ sở đó, xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật, cơ chế vận hành tổng thể, đồng bộ, thống nhất và khả thi, bảo đảm việc tổ chức, vận hành thông suốt, nhịp nhàng một cách bền vững, hiệu quả của các thiết chế quan trọng trong hệ thống chính trị, trong xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

GS.TS Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp

GS.TS Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp

Hai là, tiếp tục đổi mới và phát huy ba trụ cột phát triển: một nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới cả chất và lượng, một nền kinh tế thị trường phát triển đầy đủ và một xã hội dân chủ phát triển ở trình độ cao, trong đó thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc chủ đạo, chi phối các tương tác trong xã hội và mối quan hệ giữa ba trụ cột này. Theo đó, phải bao gồm việc đổi mới toàn diện bộ máy nhà nước và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội nhằm tạo động lực mạnh mẽ phát triển đất nước. Nhà nước sẽ tinh gọn và hiệu quả hơn nhờ vào việc đẩy mạnh cải cách mang tính cách mạng nhằm thiết lập một bộ máy chính quyền ít tầng nấc, gắn kết, dựa trên thực tài; có kỉ cương, kỷ luật cao; áp dụng nguyên tắc thị trường, nguyên tắc pháp quyền trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; và tăng cường trách nhiệm giải trình của Nhà nước thông qua việc bảo đảm sự minh bạch, công khai và sự tham gia hữu hiệu của người dân vào quá trình ra quyết định.

Ba là, cần gắn công tác xây dựng pháp luật (XDPL) với công tác tổ chức thi hành pháp luật (THPL). Theo đó, những yếu tố bảo đảm THPL và tổ chức THPL phải được đặt ra, cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình soạn thảo pháp luật; tính khả thi của pháp luật phải được đánh giá nghiêm túc trong tất cả các giai đoạn của XDPL; tăng cường khảo sát thực tiễn, đảm bảo sự tham gia rộng rãi và thực chất của Nhân dân trong XDPL và tổ chức THPL.

* PGS.TS Đinh Dũng Sỹ - Chuyên gia pháp luật, Hội Luật gia Việt Nam: Cần đầu tư nguồn lực tài chính thỏa đáng cho xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật

Để thực sự tạo đột phá trong đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, tôi kiến nghị một trong những đột phá quan trọng là cần đầu tư nguồn lực tài chính thỏa đáng cho xây dựng pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật, coi đây là một nguồn lực đầu tư công trung hạn và hằng năm của Nhà nước cho các hoạt động này.

PGS.TS Đinh Dũng Sỹ

PGS.TS Đinh Dũng Sỹ

Tôi cũng đề nghị chú trọng đổi mới công tác tổ chức thi hành pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Theo tôi, tổng kết thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị năm 2005 về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho thấy, mảng tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu, hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh pháp luật chưa cao. Nguyên nhân là khâu tổ chức thực hiện pháp luật còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa có những giải pháp thực sự đột phá trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho tổ chức thực hiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu của công tác này. Thực tế đã cho thấy, dù chúng ta có một hệ thống pháp luật tốt nhưng nguồn lực, công cụ và biện pháp thực thi kém, ý thức pháp luật của người dân thấp thì hệ thống pháp luật đó cũng chỉ nằm trên giấy mà không đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng được.

Từ đó, tôi cho rằng, một trong những điểm mấu chốt của tư duy xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật cần phải thay đổi là cần đầu tư nguồn lực tài chính thỏa đáng cho xây dựng pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật, coi đây là một nguồn lực đầu tư công trung hạn và hằng năm của Nhà nước; cần đổi mới cơ bản các phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, phương thức tiếp cận pháp luật của mọi chủ thể trong xã hội để đưa pháp luật vào cuộc sống; chuẩn hóa các chế tài pháp lý đủ mạnh, có tính răn đe và phòng ngừa cao; xử lý vi phạm pháp luật nghiêm minh, nhất quán, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều chỉnh pháp luật.

* GS. TS Nguyễn Minh Đoan, Trường Đại học Luật Hà Nội: Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến bộ máy

Để hiện thực hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng về tinh gọn bộ máy với phương châm “nói đi đôi với làm”, “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng, khả năng, hiệu quả quản lý, quản trị của Nhà nước và các tổ chức khác, tạo tiền đề, chuẩn bị về mọi mặt đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp quan trọng.

GS. TS Nguyễn Minh Đoan, Trường Đại học Luật Hà Nội

GS. TS Nguyễn Minh Đoan, Trường Đại học Luật Hà Nội

Trước hết, khẩn trương nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến bộ máy nhà nước nói riêng, bộ máy các tổ chức nói chung, tinh gọn bộ máy, cải cách hành chính và tinh giản biên chế. Việc cải cách, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá trong kỷ nguyên mới, trong đó tập trung “Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh”, hướng tới mục tiêu “quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt phấn đấu xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá.

Để làm được việc đó thì xây dựng thể chế phải là khâu đầu tiên, bởi “trong 3 “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Bên cạnh đó, cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của tinh gọn, tinh giản như giới thiệu việc làm, vị trí làm mới cho họ, hỗ trợ kinh phí… để họ thấy việc tinh gọn, tinh giản như vậy vừa mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội, vừa bảo đảm được lợi ích của họ, thể hiện tính nhân văn của chủ trương, chính sách.

Đồng thời, tiếp tục phân cấp, phân quyền cho địa phương, xã hội hóa một số hoạt động nhà nước để giảm tải cho bộ máy nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý, quản trị, không ngừng nâng cao năng suất lao động trong hoạt động quản lý nhà nước, quản trị quốc gia.

*PGS.TS. Tào Thị Quyên - Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Phát huy tính Đảng trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.

Để nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, việc phát huy tính Đảng trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Triển khai thực hiện định hướng nêu trên, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện đổi mới phương thức ban hành nghị quyết của Đảng làm cơ sở, định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật; đổi mới cách thức cho ý kiến của Bộ Chính trị đối với các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

PGS.TS. Tào Thị Quyên - Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

PGS.TS. Tào Thị Quyên - Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Cùng với đó, cần đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng tham mưu việc ban hành nghị quyết và các văn bản khác của Đảng. Một giải pháp quan trọng nữa là đẩy mạnh kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Trong đó, cần tăng cường năng lực, trách nhiệm, hiệu quả của công tác thẩm tra, thẩm định, phản biện, phân tích chính sách, pháp luật; lấy ý kiến rộng rãi đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh của văn bản; công khai, minh bạch quá trình xây dựng pháp luật.

Đổi mới nhận thức, bảo đảm thực sự chú trọng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống cũng là một nội dung cần tập trung thực hiện. Cuối cùng, cần tập trung nâng cao chất lượng sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Các cấp ủy Đảng và đảng viên phải thực sự gương mẫu tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Có thể nói, đây là đòi hỏi hàng đầu của Đảng cầm quyền trong việc thực hiện và đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.

* TS Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam: Xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ

Bước vào kỷ nguyên mới của đất nước, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận và tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu quả mọi quy định pháp luật là một trong những yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách.

TS Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

TS Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Thực tiễn cho thấy, vấn đề quan trọng không phải là ban hành thật nhiều luật, mà quan trọng là thực hiện chúng trên thực tế. Có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ cũng mới chỉ là có được yếu tố cần của Nhà nước pháp quyền nhưng chưa đủ. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân đòi hỏi pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất và công bằng, bởi mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Tổ chức thi hành pháp luật (THPL) là hoạt động nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, biến quy định của pháp luật trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể, bao gồm việc THPL, áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức cũng như việc tuân thủ, chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong mọi lĩnh vực của đời sống.

Để công tác THPL đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cần tiếp tục đổi mới tư duy về xây dựng pháp luật, đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, thúc đẩy thực hiện pháp luật hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Tiếp tục cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy thực thi pháp luật.

Xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ để tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi pháp luật. Nâng cao năng lực phản ứng chính sách trong quá trình tổ chức THPL, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về tình hình THPL.

Đổi mới, hoàn thiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức bổ trợ tư pháp trong quá trình THPL; phát triển nguồn nhân lực pháp luật và tăng cường cơ chế, điều kiện bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức THPL; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, phát triển văn hóa pháp luật của công dân…

*TS Chu Thị Hoa, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp:

Cần cắt giảm thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp

Pháp luật về quyền tự do kinh doanh phải được hoàn thiện và được tổ chức thực hiện nghiêm minh để tạo khung khổ pháp lý thuận lợi, an toàn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Theo đó, bảo đảm các luật thể chế hóa đúng tinh thần: quyền tự do kinh doanh là nguyên tắc hiến định, chỉ bị hạn chế trong các trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự, đạo đức xã hội.

TS Chu Thị Hoa, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

TS Chu Thị Hoa, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

Cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh: Tiếp tục rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý thủ tục, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp; Rà soát, loại bỏ các điều kiện kinh doanh không cần thiết, giảm rào cản gia nhập thị trường; Tăng cường kiểm soát hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm tránh chồng chéo, gây cản trở hoạt động kinh doanh; Có cơ chế phản ứng chính sách kịp thời đối với những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và người dân, nhất là những vướng mắc liên quan đến “điểm nghẽn thể chế” cần được xử lý nhanh chóng và thỏa đáng.

Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp: Cải cách hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại, tạo cơ chế trọng tài, hòa giải hiệu quả; Bảo đảm quyền sở hữu tài sản và quyền hợp đồng của doanh nghiệp được bảo vệ bằng hệ thống tư pháp độc lập, hiệu quả; Xây dựng cơ chế bảo vệ doanh nghiệp khỏi các chính sách, quy định thay đổi đột ngột hoặc thiếu minh bạch.

Hoàn thiện khung pháp lý cho một số loại tài sản phi truyền thống như: tài sản số, dữ liệu, tài sản do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, tín chỉ cacbon, không gian ngầm, …

Hỗ trợ và khuyến khích đổi mới sáng tạo, áp dụng cơ chế pháp lý “đặc biệt” với những ưu đãi “vượt trội” cho một số lĩnh vực như: kinh tế số, đổi mới sáng tạo (công nghệ tài chính - fintech, trí tuệ nhân tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, thành phố thông minh …). Phát triển hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hình thành một số “đặc khu kinh tế”, “khu vực nghiên cứu phát triển (R&D) đặc biệt” với cơ chế pháp lý “đặc biệt”: Ưu đãi về thuế, Có chính sách hỗ trợ tài chính, hỗ trợ cơ sở vật chất, hỗ trợ nhân lực, Chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư, …

Xây dựng và áp dụng sandbox triển khai và ứng dụng các công nghệ mới, cho phép thử nghiệm các hoạt động kinh doanh sáng tạo trong phạm vi và thời gian xác định, dưới sự giám sát của các nhà quản lí để đánh giá, kiểm nghiệm và điều chỉnh trước khi trở thành chính sách chung.

Để phát huy tối đa hiệu quả của sandbox, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí, cộng đồng khởi nghiệp và các nhà đầu tư. Việc xây dựng một cơ sở dữ liệu về sandbox, tổ chức các diễn đàn, hội thảo và hỗ trợ các startup tiếp cận nguồn lực là những giải pháp cần thiết để hoàn thiện cơ chế này. Trong bối cảnh khung pháp lý thường đi sau thực tế, việc cho áp dụng sandbox chính là phản ứng chính sách/cách ứng xử của cơ quan nhà nước đối với những công nghệ mới.

*TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI : Chính sách cần phải thông minh

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao từ 8% trở lên trong năm 2025 này và hai con số trong những năm tiếp sau trong bối cảnh các động lực tăng trưởng truyền thống (như mở rộng vốn, mở rộng đầu tư…) ngày càng hạn chế thì chất lượng của chính sách và quy định đặc biệt quan trọng. Hiện nay các nỗ lực thay đổi chính sách, pháp luật không chỉ là gỡ bỏ rào cản, khơi thông nguồn lực nữa mà chính sách cần phải tạo điều kiện, thúc đẩy, chính sách cần phải thông minh…

TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI

TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI

Có rất nhiều giải pháp về cải cách thể chế Việt Nam có thể triển khai, trong đó có những giải pháp như: Trước hết, cần ưu tiên hoàn thiện và ổn định hệ thống pháp luật. Hiện nay, nhiều quy định pháp luật vẫn còn chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thay đổi nhanh, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuân thủ và lập kế hoạch kinh doanh. Do đó, cần tiến hành rà soát tổng thể, loại bỏ các quy định không còn phù hợp, đồng thời đảm bảo sự nhất quán giữa các văn bản pháp luật. Việc ban hành luật cũng cần có lộ trình rõ ràng, hạn chế thay đổi đột ngột để doanh nghiệp có thể dự báo và thích ứng với môi trường pháp lý một cách hiệu quả. Đặc biệt cần tiến hành chú trọng rà soát, tiếp nhận thông tin về các quy định pháp luật không phù hợp, còn phiền hà từ các đối tượng áp dụng trực tiếp như các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, chính quyền địa phương và nhanh chóng khắc phục.

Bên cạnh đó, nghiên cứu ban hành luật/quy định về kiểm soát thủ tục hành chính, trong đó bảo đảm các nguyên tắc như sau: im lặng là đồng ý; nguyên tắc tiền lệ (các hồ sơ giống nhau phải được giải quyết như nhau); nguyên tắc đồng bộ (các cơ quan nhà nước khác nhau cũng phải giải quyết công việc như nhau); nguyên tắc liên thông (doanh nghiệp không nộp lại những hồ sơ mà các cơ quan nhà nước đã có); có cơ chế hiệu quả, an toàn để doanh nghiệp đánh giá, phản ánh chất lượng giải quyết thủ tục hành chính; quy định trách nhiệm kỷ luật của cán bộ chậm giải quyết thủ tục hành chính.

Ngoài ra, coi hỗ trợ môi trường kinh doanh là một nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách tư pháp: tập trung vào việc rút ngắn thời gian, thủ tục và chi phí giải quyết vụ án kinh doanh thương mại; hạn chế tối đa việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; giảm thời gian và tăng tỷ lệ thi hành án thành công; giảm triệt để việc hủy phán quyết trọng tài thương mại…

Đọc thêm