Báo Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu bài phát biểu tham luận tâm huyết của GS.TS Hoàng Thế Liên.
![]() |
GS.TS. Hoàng Thế Liên, Nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp, Ủy viên Hội đồng khoa học của Ủy ban thường vụ Quốc hội |
CẢI CÁCH THỂ CHẾ, PHÁP LUẬT, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã hội tụ đủ tiền đề và điều kiện để dân tộc ta vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Kỷ nguyên vươn mình được Tổng bí thư Tô Lâm xác định là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ XIV tới đây được xác định là điểm khởi đầu của kỷ nguyên mới, có trọng trách lớn lao tiếp tục chuẩn bị hành trang cho dân tộc vươn mình[1].
Đây không chỉ là kỷ nguyên phát triển bứt phá về kinh tế, xã hội mà còn là thời kỳ khẳng định khát vọng của toàn dân tộc hướng tới tương lai tươi sáng hơn; thể hiện trên thực tế vị thế là một nền kinh tế năng động trong khu vực và trên thế giới. Kỷ nguyên vươn mình cũng là quá trình hội nhập và kết nối sâu rộng với thế giới, là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế lớn, là quốc gia có ảnh hưởng trong các vấn đề khu vực, chủ động tham gia để giải quyết những thách thức toàn cầu và thể hiện trách nhiệm trong việc đối phó với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh mạng, dịch bệnh, tham gia vào việc giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc. Kỷ nguyên vươn mình là quá trình Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế số, xã hội số và ứng dụng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực đời sống. Kỷ nguyên vươn mình là kỷ nguyên mà ở đó những giá trị văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn, bảo vệ và phát huy, việc áp dụng những giá trị của sự tiến bộ phải cân bằng với giữ gìn những giá trị truyền thống và biến chúng thành nguồn lực để phục vụ cho công cuộc phát triển bền vững.
Những gì đang đợi chúng ta trong kỷ nguyên mới thật to lớn và đầy khát vọng, nhưng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước được khẳng định trong Điều lệ Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội[2], phù hợp với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra.[3]
Tuy nhiên, để dân tộc vươn mình đạt tới những khát vọng trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi phải đặt cao hơn về chỉ tiêu phát triển, nhất là các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế- xã hội; tăng tốc, bứt phá hơn về tốc độ phát triển; quyết liệt hơn trong thực hiện cải cách mang tính cách mạng về thể chế, pháp luật, tổ chức bộ máy mà trọng tâm là đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Đảng.
Đẩy mạnh cải cách thể chế, pháp luật là yêu cầu quan trọng hàng đầu nhằm tạo dựng cho được hệ thống thể chế tổng thể, đồng bộ và vận hành hiệu quả, thúc đẩy phát triển đất nước. Thể chế đó nhìn một cách tổng thể phải bảo đảm thể hiện, thực hiện ba yêu cầu cơ bản là Trật tự chung bền vững, Pháp quyền và Phát triển. Trật tự chung bền vững được xác lập trên cơ sở bảo đảm những giá trị nền tảng mà dân tộc ta đã dày công tạo dựng và vun đắp qua các thời kỳ cách mạng/phát triển, như Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; Toàn vẹn lãnh thổ; Quyền tự quyết dân tộc; Quyền làm chủ của Nhân dân; Sự lãnh đạo của Đảng; Đại đoàn kết dân tộc. Đây là điều kiện cần thiết hàng đầu, đặt nền tảng cho sự phát triển đất nước nói chung, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc nói riêng, được kế thừa và phát triển ngày càng hoàn thiện ở nước ta qua các thời kỳ. Pháp quyền đặt ra yêu cầu phải thượng tôn Hiến pháp và pháp luật vì những giá trị mà nhân loại và dân tộc ta đã và đang theo đuổi, đó là dân chủ, công bằng, văn minh, công lý, quyền con người và quyền công dân. Phát triển đòi hỏi phải thúc đẩy sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ, đón nhận cái mới và tạo điều kiện cho cái mới phát triển, hợp tác và hội nhập quốc tế sâu, rộng, tạo động lực mới, khơi thông mọi nguồn lực trong xã hội phục vụ phát triển đất nước vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Đây là các điều kiện đủ, quan trọng cho kỷ nguyên nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi thể chế, pháp luật cần được đổi mới, cải cách mang tính cách mạng theo hướng tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông mọi nguồn lực, thức dậy các tiềm năng xã hội, khuyến khích sáng tạo, đón nhận cái mới, thúc đẩy hợp tác, hội nhập quốc tế và được tổ chức thực hiện công bằng, nghiêm minh.
Để đạt được các yêu cầu nêu trên, cần có một thiết kế tổng thể, đồng bộ và khả thi về cải cách thể chế, pháp luật, chỉ đạo thực hiện quyết liệt và nhất quán với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân. Đồng thời, phải theo phương châm đã bắt đầu thì phải kiên định thực hiện cho đến khi đạt được mục tiêu đề ra, tránh tình trạng đẽo cày giữa đường. Thiết kế tổng thể đó, theo tôi, cần dựa trên tinh thần và nội dung của Nghị quyết số 27 - NQ/TW ngày 9/11/2022 về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghiên cứu kỹ Nghị quyết số 27, chúng ta sẽ thấy, những nội dung đang được nêu ra, thảo luận về cải cách thể chế, pháp luật đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, về cơ bản đã được đề ra trong nghị quyết này. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải đồng thời chỉ đạo thực hiện quyết liệt hơn Nghị quyết số 27. Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biện pháp, cách thức để thực hiện thành công mục tiêu của Đảng ta đã được xác định trong Điều lệ Đảng: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không có người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”.
![]() |
Các đại biểu tham gia Hội thảo Quốc gia "Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới" đồng tình cao với tham luận của GS.TS Hoàng Thế Liên |
2. Tháo gỡ điểm nghẽn thể chế là đột phá của đột phá mở đường cho sự bứt phá
Đối diện với yêu cầu phát triển đất nước, nhất là yêu cầu bứt phá, tăng tốc trong kỷ nguyên mới để đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao là ba điểm nghẽn lớn đã được Đảng ta chỉ ra: thể chế, hạ tầng và nhân lực, trong đó điểm nghẽn về thể chế, pháp luật được Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm khẳng định là điểm nghẽn của điểm nghẽn, cần được tập trung đột phá, mở đường cho sự phát triển đất nước.
Theo tinh thần đó, đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện thể chế là đột phá của đột phá, là động lực, nguồn lực cho sự phát triển.” Đây cần được xác định là thách thức lớn mà cả hệ thống chính trị nước ta phải đối mặt.
Trong thời gian gần đây, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật và giải pháp tháo gỡ được quan tâm nghiên cứu, thảo luận nhiều, nhất là sau khi Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XV ngày 21/10/2024. Theo dõi các cuộc thảo luận, các công trình nghiên cứu đã công bố về điểm nghẽn thể chế, có thể thấy nghẽn tập trung chủ yếu ở sự kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí hoạt động bế tắc của các thiết chế bộ máy nhà nước, ở nhiều bất cập về chất lượng pháp luật và thi hành pháp luật, ở sự chưa ngang tầm về năng lực và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; chẳng hạn:
(i) Sự cồng kềnh, nhiều tầng nấc, ôm đồm, phân công chưa rõ ràng, phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh của các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Hệ luỵ của nó không chỉ gây nên sự tốn kém, gánh nặng cho ngân sách, mà nguy hại hơn là không làm tròn vai kiến tạo, phát triển; thiếu hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong hoạch định cũng như tổ chức thực hiện chính sách, gây nhiều khó khăn cho phát triển.
Phải nói rằng, những hạn chế, yếu kém của bộ máy trong cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã được Đảng ta nhận ra từ khá lâu. Chẳng hạn, Nghị quyết số 18-NQ/TW năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả) đã tổng kết sâu sắc việc thực hiện các chủ trương, chính sách trước đó của Đảng về công tác này.
Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII là Nghị quyết chuyên đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã tổng kết chuyên sâu quá trình xây dựng, đổi mới các thiết chế trong hệ thống chính trị, nhất là các thiết chế trong bộ máy nhà nước.
Trong các nghị quyết ấy, Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá bộ máy chính trị còn cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả; năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển, từ đó nhiều chủ trương về kiện toàn bộ máy nhà nước đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị đã được khẳng định, hướng tới xây dựng một bộ máy chính trị gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả, với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, chuyên nghiệp, thực tài, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Vấn đề của vấn đề là quá trình triển khai thực hiện chậm chạp, thiếu quyết liệt, nên cải cách, đổi mới bộ máy chính trị, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi xã hội và người dân đang rất bức xúc. Mục tiêu lớn lao về phát triển đất nước đến năm 2045, những giá trị tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Đảng đòi hỏi phải có một bộ máy chính trị đủ mạnh, một đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức tài mới gánh vác được.
Vì vậy, những cải cách mang tính cách mạng về bộ máy chính trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng mà Đảng ta đang thực hiện dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm chắc chắn sẽ tạo nên bước ngoặt lớn trong sự phát triển đất nước.
(ii) Chính sách, pháp luật còn nhiều bất cập, đã được phân tích nhiều trong nghiên cứu khoa học và trong các báo cáo tổng kết của Đảng và Nhà nước ta. Chẳng hạn, trong Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN giai đoạn 2011-2020” do PGS.TS. Nguyễn Như Phát, nguyên Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, làm chủ nhiệm có khẳng định rằng hệ thống pháp luật của nước ta rơi vào tình trạng 9 không “Không đầy đủ, không rõ ràng, không cụ thể, không tương thích, không minh bạch, không tiên liệu trước, không hợp lý, không hiệu quả và không hiệu lực”. Hay ở một góc độ khác, theo PGS.TS Hà Hùng Cường, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp thì hệ thống pháp luật hiện hành có một số hạn chế lớn như:
1) Phức tạp về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật, khiến cho pháp luật khó hiểu và khó áp dụng và vì thế, kém hiệu lực;
2) Pháp luật thường xuyên thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế;
3) Nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, nặng về tính tuyên ngôn, đòi hỏi Chính phủ, bộ, ngành phải ban hành văn bản dưới luật để cụ thể hoá, nảy sinh tình trạng văn bản chờ văn bản, tình trạng mâu thuẫn chồng chéo giữa văn bản, gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện;
4) Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế, làm cho chủ thể thi hành trong nhiều trường hợp chưa hiểu hết ý định của nhà làm luật;
5) Tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế;
6) Xây dựng pháp luật chưa gắn với thực tiễn, chưa gắn với thi hành pháp luật, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. TS. Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội đã từng lưu ý rằng, trước khi đưa pháp luật vào cuộc sống thì cần đưa cuộc sống vào pháp luật đi đã, chỉ trích việc xây dựng pháp luật còn xa rời thực tiễn, chưa gắn với đời sống, phục vụ đời sống.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm trong bài phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội khoá XV, đã khẳng định: “Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi, các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn gây khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân, thủ tục hành chính còn rườm rà, tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu.”
Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều, cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết đầy đủ. Với tư cách là người quan tâm, có kinh nghiệm ít nhiều trong xây dựng pháp luật, tôi xin nêu một số nguyên nhân quan trọng như sau:
Một là, tư duy xây dựng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu phát triển, nhất là yêu cầu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Hai là, đổi mới, chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới là một quá trình lâu dài, phức tạp với nhiều biến cố khó lường, nhiều cái mới chưa kịp nhận thức đầy đủ, thấu đáo nhưng vẫn phải cố gắng xây dựng chính sách, thể chế để kịp thời đáp ứng yêu cầu của đổi mới, của cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta thực hiện đổi mới theo phương châm tiệm tiến, từng bước vững chắc nhằm bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, tránh gây sốc vĩ mô, do đó chính sách đổi mới tiếp cận theo hướng đổi mới đối với những vấn đề bức xúc, chín mùi và đạt được đồng thuận cao, khó tránh khỏi tình trạng chắp vá, thiếu tính hệ thống. Trong điều kiện như vậy, việc xây dựng pháp luật, thể chế khó tránh khỏi tính phiến diện, chủ yếu mang tính giải quyết tình thể, khó có thể có giải pháp căn cơ dẫn đến tình trạng vướng mắc trong thực thi, bỏ lỡ thời cơ.
Ba là, khoa học pháp lý của chúng ta còn non trẻ, chưa được đầu tư mạnh mẽ để phát triển, chưa làm được vai trò đi trước một bước trong việc tạo cơ sở khoa học, thực tiễn vững chắc phục vụ việc xây dựng pháp luật, thể chế. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta xây dựng pháp luật, thể chế trong điều kiện chưa nhuyễn về lý thuyết, thiếu căn cứ thực tiễn, phải mò mẫm rất khó khăn. Do đó, sản phẩm của tình trạng đó làm sao có thể tốt được.
Bốn là, trình độ, kỹ năng và cả thái độ của một bộ phận khá lớn công chức, người được giao trách nhiệm hoạch định chính sách, pháp luật, thể chế chưa ngang tầm với yêu cầu của công việc đặc biệt khó khăn và phức tạp này. Trong khi đó, chúng ta chưa có cơ chế sử dụng chuyên gia giỏi, thạo việc và tận tâm tham gia xây dựng pháp luật, thể chế. Thêm vào đó, tính luận chiến, cọ xát, phản biện về những vấn đề khó, phức tạp trong quá trình xây dựng pháp luật chưa cao, trong một số trường hợp đạt được sự đồng thuận khá dễ dàng, thuận lợi. Thực tiễn cho thấy, cơ quan và người có thẩm quyền thông qua văn bản pháp luật càng tập trung nhiều vào bàn thảo kỹ càng về chính sách, càng khó tính, không ngại va chạm, nghiêm khắc đối với việc xem xét dự thảo, thì chất lượng pháp luật càng được nâng cao; càng tập trung vào làm văn tập thể, thảo luận nhiều về từ ngữ của văn bản pháp luật, thì từ ngữ được chấp nhận trong văn bản càng xa thuật ngữ chuyên môn pháp lý, gây khó khăn cho yêu cầu hiểu chính xác theo một nghĩa thống nhất của quy định pháp luật. Tính minh bạch của quy định pháp luật cũng vì vậy mà suy giảm.
Năm là, chúng ta vẫn chưa coi đầu tư vào xây dựng pháp luật, thể chế là đầu tư phát triển để có chủ trương đầu tư thoả đáng, nhất là đầu tư cho giai đoạn xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản. Do chưa được đầu tư thoả đáng nên việc thảo luận, tranh luận, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học, tham khảo ý kiến nhân dân, đối tượng bị điều chỉnh được thực hiện chưa nhiều hoặc có phần hình thức. Đầu tư chưa tương xứng với tầm quan trọng của hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật là nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng pháp luật.
Sáu là, làm luật là đi tìm quy tắc xử sự chung, chuẩn mực chung, lợi ích chung được nhiều người chấp nhận nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng, đáp ứng yêu cầu cuộc sống, thúc đầy phát triển đất nước. Trong khi đó, ở nước ta, tư tưởng quyền anh quyền tôi, lợi ích cục bộ bộ ngành, lợi ích nhóm vẫn còn khá nặng dẫn đến tình trạng muốn đổi mới nhưng không vượt qua được lợi ích cục bộ, gây cản trở cho sự ra đời của nhiều quy định pháp phục vụ đổi mới, mở cửa, hội nhập.
Bảy là, quy trình xây dựng pháp luật là quy trình dân chủ, tuy nhiên tiếng nói của người dân, doanh nghiệp, của những đối tượng bị điều chỉnh trong xây dựng pháp luật chưa thực sự được coi trọng, còn có phần hình thức.
Tám là, vẫn còn vấn đề về kỷ cương, kỷ luật trong thực thi pháp luật; tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức chưa cao dẫn đến tình trạng thờ ơ với pháp luật, với lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức làm giảm lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với pháp luật.
Để khắc phục các yếu kém nêu trên, tạo đột phá cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, yêu cầu cấp bách là phải cải cách lập pháp, trước hết là phải đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo ý kiến chỉ đạo của Đồng chí Tổng bí thư Tô Lâm: “Phải đổi mới tư duy làm luật theo hướng không chỉ để quản lý mà phải kiến tạo cơ chế, môi trường nhằm khuyến khích sự phát triển, sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi nguồn lực của xã hội. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cần phải xoá bỏ tư duy “không quản được thì cấm” trong làm luật, vì cấm những vấn đề mang tính quy luật, tất yếu khách quan sẽ tạo ra môi trường hoạt động “chui”, trói chặt tinh thần sáng tạo, sự phát triển của các nhân tố mới, tích cực.” Phát triển tư duy đó của Đồng chí Tô Lâm, TS. Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho rằng, pháp luật là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể.” “Xây dựng pháp luật phải tiếp cận thực tế và thực tiễn, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn.”[8] Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật được xác định là hiện thân của trí tuệ, sự sáng suốt trong đường lối, chính sách của Nhà nước, sự đồng thuận cao của nhân dân đối với nội dung của pháp luật. GS.TS. Võ Khánh Vinh còn cho rằng, “Pháp luật là một nguồn lực, sức mạnh “mềm” để phát triển đất nước.”[9] Vì vậy, có thể quan niệm làm luật là lý trí hóa thực tiễn. Để có khả năng thực hiện được yêu cầu đó, đòi hỏi làm luật phải trên cơ sở khoa học và dân chủ, đòi hỏi người xây dựng chính sách, pháp luật phải là chuyên gia có trình độ, có phẩm chất, đạo đức tốt, làm việc trong môi trường chuyên nghiệp. Rất mong muốn nước ta cũng nên giao việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cho những chuyên gia giỏi. Chưa có đội ngũ này thì cần có chủ trương đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn để hình thành cho được; tiếp đến, cần phải đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa pháp lý, cho quá trình soạn thảo chính sách, xây dựng dự thảo văn bản, cho việc thảo luận, khảo sát, lấy ý kiến nhân dân, cho việc áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Ở nước ta vẫn còn tình trạng coi trọng và sẵn sàng đầu tư cao cho việc xây những con đường giao thông hữu hình, coi nhẹ đầu tư cho việc xây dựng chính sách, pháp luật được ví như những con đường vô hình dẫn dắt sự phát triển đất nước. Đồng thời, phải coi trọng phát huy dân chủ, bảo đảm cao nhất trọng lượng “tiếng nói của người dân, nhất là của đối tượng bị điều chỉnh trực tiếp” trong xây dựng pháp luật; đề cao trách nhiệm trước dân của những chủ thể xây dựng, ban hành pháp luật; đặt ra yêu cầu cao, cụ thể về đánh giá tác động của chính sách; có cơ chế chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ bộ ngành trong xây dựng pháp luật; có cơ chế phát huy vai trò chủ đạo của Quốc hội trong việc bảo đảm hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đẩy mạnh việc thực hiện thẩm quyền giải thích pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực thi pháp luật, đề cao trách nhiệm của Chính phủ trong đề xuất tháo gỡ những chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật.
3. Một số kiến nghị
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải quyết liệt trong cải cách thể chế, pháp luật; đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết. Qua đó, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, “xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”[10] với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, thực tài; xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu lớn về thể chế hoá kịp thời, đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; về thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; về đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc sống; và được thực thi nghiêm chỉnh và công bằng. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ to lớn và trọng đại đó, xin có một số kiến nghị sau đây:
Một là, tập trung nghiên cứu thấu đáo để có cơ sở để xử lý tốt, đồng bộ, hài hoà và hợp lý mối quan hệ lớn “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”; trên cơ sở đó, xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật, cơ chế vận hành tổng thể, đồng bộ, thống nhất và khả thi, bảo đảm việc tổ chức, vận hành thông suốt, nhịp nhàng một cách bền vững, hiệu quả của các thiết chế quan trọng trong hệ thống chính trị, trong xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
“ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn mà Đảng ta đặc biệt chú trọng giải quyết, được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định là “ba chân kiềng vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta, tổ quốc ta”[11]. Đảng lãnh đạo là đặc trưng cốt lõi của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là một yêu cầu tất yếu, nhằm bảo đảm bản chất của chế độ, của Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; bảo đảm thắng lợi của chính sự nghiệp xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bảo đảm sự thịnh vượng của quốc gia, dân tộc trong đó Nhân dân thực sự được tự do, ấm no, hạnh phúc và có đủ điều kiện để phát triển. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Nhà nước quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng không ngoài mục đích phục vụ Nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân; phát triển đất nước. Nhà nước có trách nhiệm không những ghi nhận đầy đủ và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm các điều kiện cần thiết để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, mà còn phải có cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân trước mọi hành vi vi phạm kể cả từ phía Nhà nước và công chức nhà nước, có kế hoạch không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của Nhân dân. Nói một cách ngắn gọn, Nhà nước quản lý phải quy định đủ quyền để dân làm chủ và bảo đảm cơ chế hữu hiệu để dân làm chủ trên thực tế. Quyền làm chủ của Nhân dân là mục tiêu của chế độ ta, nói cụ thể hơn cũng là mục tiêu của Đảng, của Nhà nước và là khát vọng của cả dân tộc ta. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là giá trị quyết định tính chính danh, tính chính đáng của Đảng lãnh đạo, của Nhà nước quản lý, làm nên vị thế và niềm tin của Đảng, Nhà nước trong lòng dân, trong xã hội. Nhân dân ta thông qua Hiến pháp của mình đã lựa chọn chế độ xã hội chủ nghĩa, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, dựng nên nhà nước, trao quyền cho nhà nước, phân công quyền lực nhà nước, thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Qua phân tích ở trên có thể thấy, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý thống nhất với nhau ở nguồn gốc, bản chất và mục tiêu là bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân; Nhân dân làm chủ có mục tiêu là khẳng định tính chính danh của Đảng lãnh đạo, của Nhà nước quản lý; làm nên động lực nội sinh mạnh mẽ phát triển đất nước, hiện thực hoá khát vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Vì vậy, có thể nói, quyền làm chủ của Nhân dân là tiêu chí quan trọng để đo lường sự thành công về Đảng lãnh đạo, về Nhà nước quản lý, và đánh giá mức độ hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên thực tế, Đảng ta đã có nhiều thành công trong việc xử lý mối quan hệ quan trọng này, trên cơ sở đó thiết lập được cơ chế ngày càng hoàn thiện để phát huy phát huy động lực của mối quan hệ lớn và tổng quát này. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, khi mà Nghị quyết số 27 - NQ/TW của Đảng yêu cầu cao: “Tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá, hoàn thiện tốt cơ chế” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh phúc của Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của Nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh”, thì mối quan hệ rường cột này vẫn còn nhiều khía cạnh cần phải được đầu tư nghiên cứu, xác lập cho được thể chế, chính sách, pháp luật, cơ chế tổng thể, đồng bộ giữa các thiết chế lớn trong hệ thống chính trị để vừa phát huy cao nhất vai trò riêng có của từng thiết chế, vừa phát huy sức mạnh chung, tổng hợp của cả hệ thống chính trị vì quyền làm chủ của Nhân dân, vì động lực phát triển, vì sự hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới và phát huy ba trụ cột phát triển: một nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới cả chất và lượng, một nền kinh tế thị trường phát triển đầy đủ và một xã hội dân chủ phát triển ở trình độ cao, trong đó thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc chủ đạo, chi phối các tương tác trong xã hội và mối quan hệ giữa ba trụ cột này. Theo đó, phải bao gồm việc đổi mới toàn diện bộ máy nhà nước và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội nhằm tạo động lực mạnh mẽ phát triển đất nước. Nhà nước sẽ tinh gọn và hiệu quả hơn nhờ vào việc đẩy mạnh cải cách mang tính cách mạng nhằm thiết lập một bộ máy chính quyền ít tầng nấc, gắn kết, dựa trên thực tài; có kỉ cương, kỷ luật cao; áp dụng nguyên tắc thị trường, nguyên tắc pháp quyền trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; và tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước thông qua việc bảo đảm sự minh bạch, công khai và sự tham gia hữu hiệu của người dân vào quá trình ra quyết định.
Việc phân công, phân cấp, phân quyền phải dựa trên nguyên tắc phi tập trung hóa; bảo đảm phân công trách nhiệm rõ ràng, gắn với điều chỉnh khung tài chính giữa các cấp chính quyền nhằm tăng cường trách nhiệm giải trình và giải quyết vấn đề kém hiệu quả trong điều phối và sử dụng nguồn lực công. Chính quyền trung ương được tăng cường theo hướng tập trung vào công tác điều phối chính sách và giám sát thực hiện chính sách, làm tốt vai trò lái con thuyền Việt Nam theo đúng sự lãnh đạo, dẫn đường, chỉ lối của Đảng. Quyền lực sẽ được phân công rành mạch, rõ ràng giữa các cơ quan trung ương, phối hợp nhịp nhàng và hợp lý với nhau và có sự kiểm soát chặt chẽ nhằm nâng cao hiệu quả và trách nhiệm giải trình. Cải cách hoạt động của bộ máy hành chính được thực hiện theo hướng bảo đảm nền hành chính dân chủ, nền hành chính phục vụ Nhân dân. Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo mô hình chuyên nghiệp, các đại biểu hoạt động chuyên trách, có đủ năng lực đáp ứng hai yêu cầu cơ bản là đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (bộ não của quốc gia) và là đại diện của nhân dân, được các chuyên gia, nhà khoa học giàu kinh nghiệm tích cực hỗ trợ. Bộ máy tư pháp được tăng cường theo hướng bảo đảm độc lập trong xét xử theo thẩm quyền, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức, cá nhân; đủ năng lực để xét xử các vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp ngày càng đa dạng và phức tạp xẩy ra trong xã hội; bảo vệ và duy trì niềm tin công lý.
Trong mối quan hệ với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần xây dựng một nhà nước kiến tạo thể chế phát triển, một nền kinh tế thị trường năng động, có năng lực cạnh trạnh và tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu dựa trên động lực tăng trưởng là khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh. Đồng thời, thể chế phải khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực trong xã hội, đáp ứng yêu cầu của chủ trương phát triển số hoá.Muốn vậy, cần có cơ chế giải quyết bài toán về xung đột lợi ích và coi đây là một nhiệm vụ quan trọng đầy thách thức của Đảng và Nhà nước. Nhà nước sẽ giảm bớt sự tham gia vào hoạt động kinh tế; tập trung thực hiện vai trò tạo sân chơi bình đẳng, hòa nhập, trong đó cần bảo đảm tốt hơn, minh bạch hơn quyền sở hữu, quyền tài sản, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất.
Trong mối quan hệ với xã hội, cần đổi mới cơ chế pháp lý theo hướng bảo đảm tiếng nói của người dân, của xã hội ngày càng mạnh mẽ, ngày càng có trọng lượng trong công việc của nhà nước. Muốn vậy cần phải phát huy vai trò của các tổ chức xã hội với tư cách là đối tác quan trọng của nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra.Nhà nước cần phải tạo khung pháp lý đầy đủ cho người dân thực hiện các quyền cơ bản, bao gồm quyền tiếp cận thông tin, quyền sáng kiến cộng đồng, quyền sáng kiến chương trình nghị sự, quyền lập hội, quyền biểu tình và các quyền dân chủ trực tiếp khác, đồng thời quy định trách nhiệm rõ ràng cho cơ quan nhà nước phải đảm bảo minh bạch, có trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện để công dân tương tác hiệu quả với Nhà nước.
Thứ ba, cần gắn công tác xây dựng pháp luật với công tác tổ chức thi hành pháp luật. Theo đó, những yếu tố bảo đảm thi hành pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật phải được đặt ra, cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình soạn thảo pháp luật; tính khả thi của pháp luật phải được đánh giá nghiêm túc trong tất cả các giai đoạn của xây dựng pháp luật; tăng cường khảo sát thực tiễn, đảm bảo sự tham gia rộng rãi và thực chất của Nhân dân trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Từ trước tới nay, phần lớn trong chúng ta đồng nhất hệ thống pháp luật với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Chính nhận thức còn có phần phiến diện đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chia cắt giữa xây dựng và thi hành pháp luật. Hệ thống pháp luật theo quan niệm hiện đại bao gồm 4 bộ phận gắn kết chặt chẽ với nhau, là tiền đề điều kiện của nhau, đó là: (i) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, (ii) Các thiết chế bảo đảm thực thi pháp luật, (iii) Tổ chức thi hành pháp luật, (iv) Nguồn nhân lực và việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác pháp luật và nghề luật. Phải đặt hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp trong quan niệm tổng thể nêu trên mới có thể chung sức tạo dựng được một hệ thống pháp luật đáp yêu cầu thực tiễn, có hiệu lực, hiệu quả vì sự phát triển bền vững của đất nước.
GS.TS Hoàng Thế Liên