Phấn đấu trở thành nước có thu nhập trung bình cao
Tại Tọa đàm đối thoại chính sách “Đổi mới thể chế kinh tế tại Việt Nam, hướng tới nước thu nhập trung bình cao trước năm 2030”, do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Fraser (Canada) tổ chức hôm qua (1/3), các chuyên gia đều đồng tình khi nhận định, chính nỗ lực cải cách, phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) từ năm 1986 tới nay đã đưa Việt Nam từ quốc gia kém phát triển thành quốc gia có quy mô GDP nằm trong nhóm 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Đặc biệt, theo GS.TS. Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng NEU, những nỗ lực xây dựng thể chế KTTT trong suốt chặng đường vừa qua đã góp phần quan trọng vào việc đưa Việt Nam từ một nước có thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 200 USD vào đầu những năm 1990 tăng lên 3590 USD vào năm 2021 (theo số liệu của Ngân hàng Thế giới).
“Với mức thu nhập bình quân đầu người như hiện nay, Việt Nam có khả năng gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 nếu không vướng bẫy thu nhập trung bình thấp” - GS.TS. Phạm Hồng Chương nhấn mạnh.
Theo TS.Fred McMahon - Viện Nghiên cứu Fraser, cải cách thể chế rất quan trọng và tự do kinh tế đã thúc đẩy sự thịnh vượng trên tất cả các châu lục và thực tế nhiều quốc gia đã chứng minh điều này. Đơn cử như Chi Lê từ một nước nghèo, ở những năm 1970 họ rất mạnh về tự do kinh tế và đến những năm 1980 Chi Lê đã trở thành quốc gia bật mạnh lên ở khu vực Bắc Mỹ và tăng trưởng kinh tế lên tới 200%. Trong khu vực, Hàn Quốc, Singapore… cũng vậy, từ khi họ tự do kinh tế, mức độ tự do kinh tế tăng, sự thịnh vượng cũng tăng lên.
“Những thực tiễn tốt và kinh nghiệm quốc tế là lời lưu ý, khuyến nghị quan trọng cho Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, cho đến nay, Việt Nam cơ bản đã là một nền KTTT hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Nhưng còn nhiều việc cần làm và phải làm…” - Chuyên gia đưa ra lời khuyên.
Nhận diện “điểm nghẽn”
Theo GS.TS. Phạm Hồng Chương, trong bối cảnh khó khăn hiện nay Việt Nam cần phải tiếp tục tìm ra những “điểm nghẽn” quan trọng về thể chế kinh tế để tháo gỡ, xem đây là “chìa khoá” để mang lại niềm tin cho các DN và nhà đầu tư cả trong, lẫn ngoài nước, đặc biệt trong bối cảnh cần chuẩn bị tốt cho quá trình gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao; trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn và bất ổn.
Tại Tọa đàm, một loạt hạn chế trong vận hành của nền KTTT Việt Nam hiện nay được chỉ ra. Đó là, Nhà nước vẫn còn can thiệp nhiều vào cơ chế giá thị trường như giá xăng dầu, giá điện, giá vé máy bay, giá y tế…. Những can thiệp này đã bộc lộ nhiều bất cập trong thời gian vừa qua như thiếu hụt xăng dầu, Hãng hàng không quốc gia và Tập đoàn Điện lực bị thua lỗ nặng nề, các bệnh viện công thu không đủ chi.
Cùng với đó, việc bảo vệ quyền sở hữu vẫn chưa được tốt. Cụ thể, đất đai nhiều nơi vẫn bị thu hồi phục vụ mục đích kinh tế của các tập đoàn bất động sản tư nhân; việc bảo vệ nhà đầu tư thiểu số trong DN chưa thực sự được chú trọng đúng mức; chưa xây dựng được khung thể chế bảo vệ các loại tài sản mới như tiền kỹ thuật số... Nhiều loại thị trường hiện đại chưa được hình thành hoặc còn hạn chế sự của người dân, như các thị trường ngoại hối, thị trường vàng phái sinh, thị trường hàng hoá phái sinh…
Cùng với đó, khu vực DN nhà nước vẫn còn lớn, trong khi tiến độ cổ phần hoá các DN nhà nước trong những năm vừa qua bị chững lại. Đặc biệt, hệ thống các văn bản pháp luật vẫn còn chồng chéo, khiến cho việc kinh doanh luôn có nguy cơ vi phạm pháp luật; bản thân các cán bộ nhà nước cũng gặp nguy cơ vi phạm pháp luật nếu hiểu sai các quy định, dẫn đến hiện tượng chậm trễ trong việc xử lý các thủ tục hành chính, gây khó khăn cho DN. Trường hợp các DN bất động sản gần đây là một ví dụ. Rất nhiều dự án không thể triển khai vì vướng thủ tục pháp lý, bị treo nhiều năm, không được giải quyết.
Riêng về lĩnh vực thể chế thị trường tài chính, TS Cấn Văn Lực, Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã chỉ ra 7 vấn đề mà theo ông nếu nghiêm túc “mổ xẻ” sẽ thấy rất nhiều việc phải làm. Đó là: Hành lang pháp lý và cam kết, thông lệ quốc tế; Qui mô, cấu trúc hệ thống và vấn đề sở hữu, quản lý; Vấn đề tín dụng chính sách; Giám sát, an toàn hệ thống; Năng lực của cơ quan quản lý, các định chế tài chính và thị trường tài chính-tiền tệ; Phối hợp chính sách; Giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng.
“Suy cho cùng, thể chế là do con người đặt ra, qui ước, cải cách thể chế luôn gắn liền quyết tâm chính trị. Hoàn thiện thể chế thị trường tài chính nhằm đảm bảo phát triển lành mạnh, bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính – yếu tố then chốt trong hoàn thiện thể chế KTTT…”- TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
“Kinh nghiệm của Việt Nam từ những lần suy giảm kinh tế trước đây, từ khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 hay đại suy giảm toàn cầu 2008-2009, cho thấy không phải các chương trình kích cầu, đầu tư công mang lại thành tựu phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo, mà chính là cải cách thể chế kinh tế mới là “chìa khoá”… Đây chính là thời điểm quan trọng để Việt Nam xem xét, đánh giá thể chế KTTT của mình nhằm chuẩn bị tốt cho giai đoạn thuộc nhóm thu nhập trung bình cao; đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều bất ổn do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 và xung đột giữa Ucraine và Nga, dẫn đến lạm phát cao, buộc các Ngân hàng Trung ương trên toàn cầu phải thắt chặt tiền tệ, có nguy cơ gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu…
(GS.TS. Phạm Hồng Chương- Hiệu trưởng NEU)