Rầu lòng 'vợ chồng nhí' nơi đại ngàn

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Dù rất nhiều nỗ lực, song ở khu vực vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống vẫn tiềm ẩn nguy cơ cao diễn ra tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết, gây ra nhiều hệ lụy đối với bản thân, gia đình và xã hội…
Thanh thiếu niên dân tộc thiểu số được tuyên truyền phòng chống tảo hôn, buôn bán người dưới nhiều hình thức.
Thanh thiếu niên dân tộc thiểu số được tuyên truyền phòng chống tảo hôn, buôn bán người dưới nhiều hình thức.

“Bắt chồng” tốn kém nhưng có người làm việc nhà?

Chị Lý Mùi D., dân tộc Dao ở xã Bình Lãng, huyện Thông Nông, Cao Bằng sinh năm 1993. Năm 2009, khi D. vừa 16 tuổi, bố bắt nghỉ học lấy chồng. Chồng D. cũng là người Dao, sinh năm 1991, ở cùng thôn. Cả hai cùng học một trường. Khi lấy nhau, D. 16 tuổi, chồng gần 18 tuổi, nghĩa là cả hai đều chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. D. kể, 4 năm sống chung một mái nhà nhưng cặp vợ chồng “trẻ con” không nói chuyện, không ngủ cùng.

D. còn bùi ngùi cho hay, lấy nhau khi còn nhỏ, phải bỏ học giữa chừng và không có vốn nên vợ chồng chỉ ở nhà làm ruộng, trồng ngô. Cuộc sống quá khó khăn do thiếu kiến thức làm ăn và thiếu tiền để chăm sóc con nhỏ. Ít năm nay, được chính quyền hướng dẫn trồng cây thuốc lá, gia đình D. mới có thêm thu nhập 20 triệu đồng/năm. Đôi vợ chồng trẻ vừa làm được ngôi nhà nhỏ nhưng nợ nần chồng chất chưa biết khi nào mới trả xong.

Anh trai D. cũng tảo hôn. Do chưa biết làm ăn và còn trẻ con nên cặp vợ chồng này đã sớm ly hôn sau thời gian ngắn chung sống.

Rcăm H’Đưng (sinh năm 2003) ở buôn Ơi Khăm, xã Đất Bằng, huyện Krông Pa (Gia Lai), em “bắt chồng” khi mới 14 tuổi. Rơ Ô Chương (chồng của H’Đưng) cũng chỉ mới 17 tuổi. Không được đến trường, những ngày đi làm rẫy thuê, H’Đưng “ưng” Rơ Ô Chương. Không có tiền làm đám cưới, hai người dắt nhau về ở trong căn nhà của mẹ H’Đưng. Khó khăn chồng chất khó khăn khi vợ chồng không có việc làm, bữa đói, bữa no. Hồi đó, H’Đưng sinh non ở tháng thứ 7, phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện, đứa trẻ sinh ra chỉ được hơn 2kg.

Điều đáng nói, không chỉ H’Đưng mới lấy chồng khi ở tuổi thiếu niên mà trước đó mẹ H’Đưng cũng “bắt chồng” năm 14 tuổi và có 3 con. Chị của H’Đưng là Rcăm H’Mưng, cũng lấy chồng năm 15 tuổi. Do sức khỏe yếu, H’Mưng đã bị sẩy thai ở tháng thứ 5. Đại gia đình của H’Đưng gồm 9 người ở chung trong căn nhà sàn khoảng chừng 40m2 mượn của người bà con. Gia đình không có đất ở, chỉ có 1 sào đất trồng sắn. Mùa nương rẫy, cả gia đình tập trung đi cày thuê, cuốc mướn, đến lúc nông nhàn, nhiều ngày đại gia đình H’Đưng phải nhịn đói.

Chị La O Hin (sinh năm 1982), dân tộc Chăm H’roi, buôn Ma Giai (được gọi là buôn cuối xã, còn Đất Bằng là xã cuối huyện Krông Pa, huyện cuối của Gia Lai, giáp Phú Yên - địa bàn đặc biệt khó khăn) mồ côi cha mẹ khi mới 2 tuổi và sống cùng chị gái. Hồi nhỏ, chị gái đào khoai lang trên rẫy nuôi em. Chị Hin chia sẻ, chị không đi học, không biết chữ vì từ nhỏ đã phải ở nhà trông cháu.

Vì nhà nghèo, năm 16 tuổi chị “bắt chồng” chỉ “tốn” 1 con bò. Cứ ngỡ lập gia đình sẽ có cuộc sống mới hạnh phúc, vui vẻ hơn nhưng ngờ đâu đó lại là cái mốc ghi dấu những ngày bất hạnh trong cuộc đời chị. Nợ nần, không thu nhập, con cái nheo nhóc và một người chồng nghiện rượu. Anh chồng cứ rượu vào là về đánh vợ khiến cuộc sống của chị chìm trong nước mắt.

Có những lần chị bị đấm thâm tím mắt mấy ngày vết bầm vẫn chưa tan. Rồi cái gì đến cũng phải đến, không thể tiếp tục chịu đựng cuộc sống như địa ngục, chị chia tay với gã chồng và món nợ 50 triệu đồng hai vợ chồng vay để nuôi bò trước đó.

Chị Hin cười buồn: “Tôi khổ lắm. Đời mình nghèo, rồi đến con mình cũng vậy! Cố gắng động viên con học nhưng con gái cũng chỉ đến lớp 10 là nghỉ…”. Con gái chị cũng theo bước chân mẹ, lấy chồng năm 17 tuổi. Khác với mẹ, “bắt chồng” chỉ mất 1 con bò, con gái chị phải mất tận 3 bò, 1 heo. Ngoài bò, heo, còn phải đưa cả tiền - chị Hin chia sẻ. Tất nhiên số tiền đó chị phải vay nóng rồi làm mướn trả. “Mà buồn lắm, nó cũng chỉ ở rể được 1 năm…”. Giờ ở tuổi 40, chị đã là bà ngoại của hai cháu nhỏ.

Dựng vợ, gả chồng ở Krong Pa cô dâu thường phải tốn kém 1-2 con bò.(Ảnh: PV)

Dựng vợ, gả chồng ở Krong Pa cô dâu thường phải tốn kém 1-2 con bò.(Ảnh: PV)

Ở buôn Ma Giai cũng có nhiều cặp đôi tảo hôn khác. Các “cô dâu 16 tuổi”, nhiều trường hợp cưới từ năm 14 tuổi, gương mặt vẫn ngơ ngác đã địu trên lưng những đứa trẻ còi cọc.

Chị A Lê H’Bát, cộng tác viên dân số xã Đất Bằng, huyện Krông Pa chia sẻ: Để người dân hiểu tảo hôn là trái pháp luật và gây nhiều hệ lụy cho chính bản thân, gia đình, xã hội là cả một vấn đề nan giải. Mặc dù là người địa phương nhưng khi đi vận động, tuyên truyền, chị thường bị bà con xa lánh. Trong tập quán sinh hoạt của người J’rai ở Tây Nguyên, tục “bắt chồng” được coi là trọng đại nhất trong cuộc đời. Do vậy, dù trong bối cảnh nào, người J’rai vẫn giữ gìn tục “bắt chồng” theo đúng các nghi lễ từ ngàn đời nay.

Lời tỏ tình của người J’rai xuất phát từ tấm lòng của người con gái, bằng hình ảnh tự nguyện như nhận cuốc xẻng hoặc cái áo, cái quần… của người con trai sau ngày làm nương rẫy và mang về nhà. Nếu người con trai đồng thuận thì cặp trai gái đã thực sự mến nhau, tìm hiểu nhau rồi yêu nhau.

Đến thời điểm thích hợp, bên nhà gái nhờ già làng hoặc người có uy tín trong làng để làm mai mối kết duyên thành vợ, thành chồng. Ngày “bắt chồng” tuỳ theo đời sống kinh tế của mỗi hộ gia đình, có thể là cặp gà hoặc con lợn, thậm chí là con bò để mang sang bên nhà trai làm lễ có sự chứng kiến của cha mẹ hai bên gia đình và đại diện dòng tộc. Tuy nhiên, ở Krôngpa, các cô dâu muốn cưới chồng phần lớn rất tốn kém, được tính bằng từ 1 - 2 con bò trở lên, tùy theo nhà trai thách cưới... Với đồng bào Tây Nguyên cũng như miền núi phía Bắc, “bắt chồng”, “bắt vợ” là để có thêm người làm nương rẫy. Nhưng thực tế từ những hủ tục đó là đói nghèo, lạc hậu mãi bám riết cuộc sống luẩn quẩn của bà con vùng cao…

Cần xử phạt nghiêm khắc theo pháp luật và hương ước

Hiện Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng 14,2 triệu người, chiếm gần 15% tổng dân số. Cả nước có hơn 3.400 xã, phường, thị trấn nằm trong vùng DTTS và miền núi. Không ít địa phương trong số này là xã đặc biệt khó khăn, thuộc huyện nghèo.

Mặc dù đã có nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, văn hóa, xã hội; các chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm... đã giúp đời sống người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi có chuyển biến tích cực, khoảng cách phát triển giữa các vùng đang từng bước được thu hẹp.

Bà Phạm Thị Thúy Hà, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc thiểu số, Ủy ban Dân tộc cho biết, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 2021 - 2025 có xu hướng giảm dần theo từng năm. Đơn cử, tại Hòa Bình, năm 2021 có 222 trường hợp tảo hôn, giảm xuống còn 127 trường hợp tảo hôn vào năm 2023 và không có cặp kết hôn cận huyết thống. Trong khi đó tại Hà Giang, năm 2023 số cặp kết hôn tảo hôn là 176 cặp; giảm 112 cặp so với năm 2022; chỉ còn 1 cặp kết hôn cận huyết thống, giảm 1 cặp so với năm 2022.

Những người mẹ nhí kết hôn từ năm 14 - 16 tuổi, buôn Ma Giai - Krông Pa- Gia Lai.(Ảnh: PV)

Những người mẹ nhí kết hôn từ năm 14 - 16 tuổi, buôn Ma Giai - Krông Pa- Gia Lai.(Ảnh: PV)

Tại Sơn La, năm 2022 số cặp tảo hôn là 664 cặp, đến năm 2023 phát sinh 1.058 cặp, tăng 35%; có 3 cặp kết hôn cận huyết thống. Tại Cao Bằng, ghi nhận 96 cặp tảo hôn xảy ra trên địa bàn các huyện Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Hòa, Hà Quảng, Bảo Lạc, Bảo Lâm trong năm 2023; 4 cặp kết hôn cận huyết thống tại huyện Bảo Lâm, Hà Quảng.

Tại Sóc Trăng, năm 2023 có 151 trường hợp tảo hôn, trong đó có 59 trường hợp tảo hôn cả vợ và chồng; 92 trường hợp tảo hôn chỉ có vợ hoặc chồng; 1 trường hợp hôn nhân cận huyết thống.

Theo bà Hà, để tích cực giảm thiểu tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền vận động, truyền thông, giáo dục pháp luật về không tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; cùng đó, đưa vào hương ước, quy ước của thôn, ấp, bản, tổ dân phố các nội dung xóa bỏ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và các hủ tục lạc hậu, bảo đảm phụ nữ và nam giới có quyền, nghĩa vụ như nhau trong kết hôn trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận...

Cùng đó, quan tâm chăm lo phát triển văn hóa xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm, đảm bảo các chính sách an sinh xã hội...

Bên cạnh đó, theo ông Nguyễn Văn Huân, Văn phòng Ủy ban Dân tộc, dù kết hôn cận huyết tuy cơ bản đã giảm, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trở lại ở một số dân tộc trong vùng đồng bào DTTS và miền núi. Theo thống kê của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, tại một số dân tộc như Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Ê Đê, Chu Ru, Chứt… và đặc biệt là các dân tộc Si La (Điện Biên, Lai Châu), Lô Lô, Pu Péo (Hà Giang), Mông Xanh (Lào Cai), Rơ Mân, Brâu (Kon Tum) thì cứ 100 trường hợp kết hôn thì có khoảng 10 trường hợp là hôn nhân cận huyết thống. Họ đang là những dân tộc ít người có nguy cơ suy giảm số lượng và chất lượng dân số rõ rệt nhất do tình trạng hôn nhân cận huyết gây ra. Điều dễ nhận thấy, bởi công tác tuyên truyền hiệu quả chưa cao, sự can thiệp từ phía chính quyền địa phương đối với các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn chưa kiên quyết, chưa kịp thời. Do đó, ông Huân cho rằng, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và thực thi nghiêm minh theo pháp luật trong công tác phòng, chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, nhất là đối tượng là cán bộ, đảng viên; xử phạt hành chính kết hợp với xử phạt theo hương ước, quy ước. Đồng thời, Nhà nước cần bố trí đủ ngân sách nhằm thực hiện các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án hiện hành về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân vùng bào dân tộc thiểu số. Ưu tiên đầu tư, bố trí nguồn lực hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với những khu vực có tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống cao, nhằm tạo điều kiện giúp đồng bào DTTS tăng cường khả năng tiếp cận, mở rộng giao thương, giao lưu với cộng đồng, góp phần giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống…