Tạo thể chế hiệu lực, hiệu quả, thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Luật Thủ đô là bước thể chế hoá quan trọng các chủ trương, đường lối, chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương có liên quan đến phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW và các nghị quyết khác của Đảng có liên quan. Luật đã đảm bảo được tính đồng bộ, thống nhất khi được triển khai thực hiện và 2 Quy hoạch Thủ đô sau khi được phê duyệt.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thủ đô.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thủ đô.

Thể chế hoá nhiều cơ chế, chính sách mới

Luật Thủ đô được nghiên cứu, xây dựng trong quá trình hơn 3 năm (từ tháng 3/2021), trải qua rất nhiều bước, nhiều khâu theo quy trình xây dựng pháp luật, từ giai đoạn tổng kết thi hành Luật Thủ đô năm 2012, lập đề nghị xây dựng Luật Thủ đô và tổ chức soạn thảo, trình dự án Luật với hàng trăm cuộc họp, hội nghị, hội thảo, khảo sát tại các địa phương trong nước và nước ngoài.

Từ kết tổng kết thi hành Luật Thủ đô và nội dung đề xuất chính sách xây dựng Luật Thủ đô, TP Hà Nội đã nghiên cứu, tổng hợp, đề xuất với Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 5/5/2022 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tạo cơ sở chính trị quan trọng cho việc xây dựng Luật Thủ đô.

Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, ngày 28/6/2024, Luật Thủ đô đã được Quốc hội chính thức thông qua.

Luật Thủ đô là bước thể chế hoá quan trọng các chủ trương, đường lối, chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương có liên quan đến phát triển Thủ đô tại Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW và các nghị quyết khác của Đảng có liên quan.

Luật đã kế thừa, phát triển những quy định của Luật Thủ đô năm 2012; phát triển các cơ chế, chính sách đặc thù đang thực hiện thí điểm tại Thủ đô và các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương đảm bảo phù hợp với đặc điểm, tình hình, mục tiêu, yêu cầu xây dựng Thủ đô trong thời gian tới.

Đồng thời, thể chế hoá nhiều cơ chế, chính sách mới, phân quyền, phân cấp mạnh mẽ cho Thủ đô trên tất cả các lĩnh vực.

Tập trung lại, Luật Thủ đô đã đảm bảo được tính đồng bộ, thống nhất khi được triển khai thực hiện Luật và 2 Quy hoạch Thủ đô sau khi được phê duyệt.

So với Luật Thủ đô năm 2012, Luật Thủ đô năm 2024 đã được bổ sung đồng bộ, toàn diện rất nhiều nội dung mới như tổ chức chính quyền Thủ đô, các quy định về thẩm quyền đầu tư, ưu đãi, thu hút đầu tư, cơ chế đầu tư phát triển đô thị theo định hướng giao thông TOD, về phát triển nông nghiệp, nông thôn; về phát triển y tế; về an sinh xã hội; thử nghiệm các công nghệ mới, mô hình mới.

Đối với những nội dung đã quy định trong Luật Thủ đô năm 2012, Luật cũng được sửa đổi, bổ sung toàn diện như các quy định về tài chính - ngân sách; quy hoạch, xây dựng, chỉnh trang đô thị; khoa học công nghệ, phát triển văn hóa, giáo dục đào tạo, xử lý vi phạm hành chính; nâng cấp một chương riêng về liên kết, phát triển vùng...

Các quy định được xây dựng theo hướng phân quyền mạnh mẽ từ Trung ương về TP (về đầu tư, quy hoạch xây dựng, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ...), đổi mới mô hình quản trị, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền Thủ đô đối với hoạt động quản lý điều hành các mặt của đời sống kinh tế - xã hội của Thủ đô.

Phân quyền mạnh mẽ từ Trung ương về TP

Luật Thủ đô được thông qua gồm 7 chương, 54 điều (tăng 3 chương, 27 điều so với Luật Thủ đô 2012). Trong đó, đáng chú ý, trên cơ sở kế thừa Điều 1 Luật Thủ đô 2012, Luật quy định cụ thể và bổ sung các nội dung về tổ chức chính quyền tại Thủ đô, ngân sách, huy động nguồn lực đầu tư phát triển Thủ đô và liên kết, phát triển bổ sung vùng Thủ đô vào phạm vi điều chỉnh của Luật.

Tại Chương I của Luật Thủ đô đã có sự bổ sung đặc biệt quan trọng về nguyên tắc áp dụng Luật thủ đô, theo đó, Luật quy định việc ưu tiên áp dụng Luật Thủ đô, văn bản quy phạm pháp luật được giao để thi hành Luật Thủ đô trong trường hợp có quy định về cùng một vấn đề với các Luật, văn bản dưới luật khác.

Đồng thời, Luật cũng xác định rõ, trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành sau ngày Luật Thủ đô có hiệu lực thi hành có quy định khác với quy định của Luật Thủ đô về cùng một vấn đề mà cần áp dụng thì phải quy định cụ thể ngay về việc áp dụng pháp luật trong luật, nghị quyết đó; trường hợp chưa có quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật và việc áp dụng quy định đó cần thiết cho việc xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc áp dụng theo đề nghị của Chính phủ và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Quy định này sẽ giúp cho Luật Thủ đô có giá trị thi hành, hiệu lực, hiệu quả ổn định, không bị tình trạng vô hiệu hoá bởi các luật, nghị quyết ban hành sau như đã xảy ra đối với Luật Thủ đô năm 2012; nhưng cũng mở ra việc được áp dụng các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác nếu cần thiết, hiệu quả cho việc xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô.

Luật Thủ đô cũng có một chương hoàn toàn mới, bổ sung các quy định đặc thù về tổ chức chính quyền ở Thủ đô. (Chương II. Tổ chức chính quyền đô thị, gồm 9 điều từ Điều 8 đến Điều 16).

Theo đó, Luật ghi nhận việc không tổ chức HĐND ở phường, cho phép tăng số đại biểu HĐND TP lên không quá 125 người, tăng số lượng Phó Chủ tịch HĐND, số lượng đại biểu HĐND chuyên trách, tăng số lượng các Ban của HĐND ở cả cấp TP và quận, thị xã, TP thuộc Thủ đô.

TP được giao quyền chủ động trong việc tổ chức các Ban của HĐND, được chủ động trong tổ chức, sắp xếp các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác của cấp TP và cấp huyện.

TP cũng được chủ động xác định số lượng biên chế cán bộ, công chức, số lượng viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước do TP quản lý căn cứ vào danh mục vị trí việc làm, quy mô dân số, thực trạng khối lượng công việc, đặc điểm an ninh, chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn và khả năng cân đối ngân sách của TP, bảo đảm tỷ lệ giữa tổng số biên chế so với tổng số dân không vượt mức tỷ lệ trung bình của cả nước trình cấp có thẩm quyền quyết định.

Về tuyển dụng, sử dụng công chức, Luật đã quy định thống nhất chế độ công chức, không phân biệt công chức cấp xã với các cấp khác. Cho phép được ký hợp đồng làm việc như công chức ở các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính cấp TP và cấp huyện.

Cho phép TP được chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức ở đơn vị nhà nước bảo đảm 100% chỉ thường xuyên căn cứ trên cơ sở đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc, với tổng mức chỉ không vượt quá 0,8 lần tổng quỹ lương.

Đặc biệt, Luật cũng đã có quy định tháo gỡ cơ bản vướng mắc về phân cấp, uỷ quyền trong nội bộ TP, cho phép UBND phân cấp cho đơn vị sự nghiệp trực thuộc, Chủ tịch UBND được uỷ quyền cho Thủ trưởng cơ quan hành chính khác và Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công lập; cho phép cơ quan chuyên môn cấp trên được uỷ quyền cho UBND hoặc cơ quan chuyên môn cấp dưới giải quyết thủ tục hành chính; cho phép UBND, Chủ tịch UBND cấp xã được uỷ quyền cho công chức giải quyết thủ tục hành chính.

Đọc thêm