Trò chơi dân gian con trẻ: 'Thế giới mộng mơ' đã mờ phai

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Mỗi trò chơi dân gian của con trẻ không đơn giản là một trò mua vui mà còn giúp trẻ con thể hiện sự linh hoạt, thông minh, khả năng quan sát, tìm tòi, phát hiện, bồi đắp tinh thần thể thao, đồng đội.
Trò chơi dân gian con trẻ: 'Thế giới mộng mơ' đã mờ phai

“Nu na nu nống” - một sáng tạo dễ thương của con trẻ

Một số trò chơi dân gian ngày Tết đã đi vào thi ca như bài “Cây tam cúc” của Hoàng Cầm hay “Đánh đu” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Sinh thời, cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã có bài thơ nổi tiếng để khất nợ vì thua tổ tôm. Nhưng các trò chơi dân gian trong văn hóa Việt Nam không chỉ giới hạn ở đó. Điều đó cho thấy sức sống của trò chơi dân gian là một thú không thể thiếu của con trẻ những lúc rảnh rỗi, không những thế nó cũng thu hút người lớn những lúc nông nhàn.

Theo nhà nghiên cứu dân tộc học người Pháp Gustave Dumoutier thì các trò chơi dân gian của người Việt nhiều trò giống của trẻ em châu Âu như: xếp vòng tròn hát, đi săn, đánh trận, ú tim, đánh đu, bịt mắt bắt dê, thả diều, nhảy lò cò, đá cầu, bi lỗ hay đáo lỗ. Ông đã liệt kê ra những trò chơi thú vị dạy trẻ con khả năng phán đoán và cảm nhận đối phương khi không nhìn thấy gì, đó là trò “Bịt mắt bắt dê”.,

Ông miêu tả: “Người chơi bịt hai mắt, phải bắt một cách may rủi và nhận ra một trong số người chơi vây chung quanh. Biến thể của trò chơi này là “bắt cái”, trong đó, người chơi không bịt mắt, nhưng một số bạn bè đứng sau lưng, lấy tay bịt mắt người chơi, sau đó dùng bàn chân trần, chạm nhẹ vào cẳng rồi đột ngột nhảy sang bên cạnh, bỏ hai tay bịt mắt ra và người chơi, để được tha, phải đoán xem đứa bạn đã đá bằng chân phải hay chân trái”.

Hay như trò đá cầu, nhảy lò cò, đòi hỏi sức mạnh, khéo léo và kỹ năng cá nhân để thắng đối thủ. Đây chính là trò chơi có tinh thần thi đấu thể thao đối kháng. “Nhảy lò cò, tại vài tỉnh bên Pháp người ta còn gọi là basculot, cùng một hình thức như ở Pháp và chơi cùng một kiểu. Cách biệt thắng thua tính bằng ván. Kẻ thua phải cõng người thắng trên lưng đi một đoạn đường nào đó, hoặc ăn một vài quả thụi nhất định. Đá cầu không chỉ là trò chơi con trẻ, ngay cả người lớn, thanh niên cũng thi tài. Trái cầu là một quả nhỏ có gắn chùm lông, đá đón và đá trả lại, không dùng vợt mà chỉ dùng tay, chân”. Gustave Dumoutier cho biết thêm.

Nhiều trò chơi xưa vẫn còn tiếp diễn theo dòng chảy thời gian như: nhảy lò cò, đá cầu, trốn tìm, đánh trận giả… hay hội thả diều, đấu pháo đất. Bên cạnh đó có những trò chơi bắt đầu chìm vào quên lãng và hầu như biến mất ở nơi thôn dã hay thành thị, như chi chi chành chành, kéo cưa lửa xẻ, thả đỉa ba ba… Có lẽ phần nào đó trẻ con bây giờ sống cá nhân hơn, do áp lực gia đình về học tập mà ít được “thả rông” đi chơi hội nhóm như xưa.

“Nu na nu nống” không chỉ là trò chơi mà còn là một sáng tạo dễ thương của con trẻ. Con trai, con gái đứa nào muốn chơi thì ngồi cạnh nhau, duỗi hai chân ra phía trước, xếp thành hàng ngang. Đứa làm trưởng trò ngồi giữa hoặc ngồi đầu hàng phía tay trái hay tay phải tuỳ ý. Trưởng trò dùng tay lần lượt chạm vào bàn chân những đứa khác. Vừa chạm vừa hát bài Nu na nu nống: “Nu na nu nống/Cái cống nằm trong/Cái ong nằm ngoài/Củ khoai chấm mật/Phật ngồi phật khóc/Con cóc nhảy ra/Con gà ú hụ/ Bà mụ thổi xôi/Nhà tôi nấu chè/ Tè he chân rụt”.

Cứ hát thế đến khi chạm hết hàng chân thì quay trở lại, tiếp tục cho đến hết bài hát. Tiếng cuối cùng của bài hát rơi vào chân nào thì chân ấy phải rụt về. Trò chơi tiếp tục lại từ đầu bài hát. Cứ như vậy, cho đến bàn chân cuối cùng. Đứa cuối cùng này bị thua, phải làm trưởng trò chơi ván khác.

Muốn cho trò chơi tăng thêm hồi hộp, thú vị thì trưởng trò có thể ngân nga kéo dài tiếng cuối cùng rồi bất chợt vung tay chạm bất cứ chân nào. Chơi như vậy bắt buộc đứa nào cũng phải chăm chú. Nu na nu nống không cần chạy nhảy, hò hét. Không làm dơ bẩn chỗ chơi. Người lớn có vẻ bằng lòng cái trò “dễ thương” này.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Dư nhận định về trò chơi này có phần vô nghĩa về lời hát: “Ngay cả Ngô Quý Sơn, người biên khảo về các trò chơi của trẻ con, cũng không trả lời được. Kể cả những người giúp ông đi điều tra, ghi chép thông tin cũng không ai biết nghĩa là gì. Có lẽ vì vậy mà Ngô Quý Sơn mới đi đến kết luận là tên Nu na nu nống không có nghĩa. Tuy nhiên, Ngô Quý Sơn cũng cho biết một điều bên lề là những cộng sự già nua nhất của ông lúc bé cũng đã từng chơi Nu na nu nống. Dựa vào bằng chứng này, ông cho rằng trò chơi Nu na nu nống đã có từ lâu”.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Dư giải thích: “Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức định nghĩa: Nu na là một trò chơi của trẻ con, ngồi duỗi chân ra mà đếm. Nghĩa rộng của Nu na là ngồi thong thả nhàn hạ. Công việc không có, ngồi nu na với nhau cả ngày”

Với nhiều lời hát được thêu dệt, với nhiều lý giải của các nhà nghiên cứu khi cho rằng trò chơi Nu na nu nống cũng có thể hiểu “Nô na nu nống” mà theo nhà các nghiên cứu ngôn ngữ dân gian “nô” có nghĩa là đầy tớ, “na” có nghĩa là nghỉ ngơi. Nên Nô na nghĩa là đầy tớ lúc được an nhàn, nghỉ ngơi. Đầy tớ được an nhàn, nghỉ ngơi có thể hiểu là lúc được chơi đùa. Nghĩa rộng của Nô na là đầy tớ chơi đùa lúc được an nhàn, nghỉ ngơi.

Một trò chơi vui vẻ, nhưng khi hiểu sâu về nó lại mang nhiều thông điệp tích cực, sáng tạo. Tiếc rằng, nó không còn đất sống trong thời đại bây giờ.

Những trò chơi dân gian gắn với tuổi thơ của rất nhiều thế hệ người Việt. (Ảnh minh họa: Internet)

Những trò chơi dân gian gắn với tuổi thơ của rất nhiều thế hệ người Việt. (Ảnh minh họa: Internet)

Trò chơi tồn tại như báu vật tinh thần

Theo nhà nghiên cứu văn hoá Phan Cẩm Thượng thì trẻ em là đối tượng khá tự do của làng xã, chúng chưa có nhiều nhận thức và khả năng hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và văn hóa chung, chúng cũng được gia đình làng xã bao bọc như thế hệ tương lai, mặc dù sự giáo dục dưới góc độ Khổng giáo thường khá nghiêm khắc. Trò chơi con trẻ đã khiến chúng khám phá thế giới làng xã sau luỹ tre làng bao bọc.

Ông Phan Cẩm Thượng bày tỏ về sự lý thú của trò chơi dân gian con trẻ ở trong cộng đồng nhỏ hẹp: “Trẻ em Việt Nam, trong các làng xã Bắc Bộ, là một cộng đồng thu hẹp, các làng đều tương đối giống nhau về cấu trúc xã hội và sản xuất nông nghiệp, nhưng khá khác nhau về tập tục và sự biệt lập trong sinh hoạt giữa làng này và làng kia. Ngay cả người lớn, cũng ít khi đi ra khỏi làng mình. Họ ở nhà, đi chợ làng, chợ xã, ra đồng, ra sông, rồi quay về.

Trẻ em thì càng ít đi khỏi phạm vi này, chúng được gia đình và làng xã bao bọc. Một số ít học nghề, một số ít học chữ, còn lại đều chẳng học gì, mà sớm tham gia sản xuất nông nghiệp cùng gia đình, và cuối cùng trở thành nông dân như cha ông.

Trong làng, trẻ em chơi với nhau hằng ngày theo từng ngõ xóm, vào dịp lễ tết hội làng, chúng có thể tham gia những trò chơi chung. Tuy vậy, các trò chơi của trẻ em, hầu như ở Bắc Bộ, đều tương đối thống nhất, mặc dù chẳng có sự học hỏi tham khảo nào. Dường như trò chơi tồn tại cùng cuộc đời của chúng, có sẵn trong làng xã theo những trò nhất định, không quá nhiều, cũng không quá ít, và tăng dần độ khó theo tuổi tác.

Đến tuổi có thể lập gia đình, nếu tảo hôn, nữ mười ba, nam mười sáu (theo tuổi âm, nữ thập tam, nam thập lục, tức là tuổi phát dục) chúng sẽ tự nhiên từ bỏ trò chơi. Thông thường, độ tuổi chơi của trẻ em nông thôn cũng chỉ từ lên bốn đến mười một, sau đó chúng phải tham gia công việc gia đình, chăn trâu, cắt cỏ, mót lúa, bắt cua, bế em, rửa bát…

Hàng trăm năm, có lẽ hàng ngàn năm, đời sống làng xã này tồn tại và dường như bất biến trong xã hội phong kiến. Con người vẫn sinh lão bệnh tử, sinh ra, lớn lên, lập gia đình, rồi đóng vai trò nào đó trong gia đình, làng nước, rồi quy tiên, người nông dân xưa không thắc mắc về thân phận mình.

Chơi là hành vi tự nhiên của động vật, nhằm giải tỏa năng lượng thừa, gắn kết giống loài và tập săn bắn kiếm mồi, thông qua chơi mà học tập kinh nghiệm sinh tồn của thế hệ trước. Từ chơi đến trò chơi có khoảng cách do con người tạo ra, so với động vật. Nghệ thuật, thể thao và các diễn xuất khác chính là trò chơi ở đỉnh cao. Nhưng con người cũng là một thực thể tôn giáo, vì thế trò chơi không chỉ mang tính giải trí mà còn mang tính tâm linh nhất định. Trong rất nhiều bài đồng dao, có nhiều nhận thức sơ khai về trời đất, ma quỷ, và các thế lực tự nhiên, cũng như rất có thể người lớn đã ấn những câu hỏi và những câu trả lời vào trò chơi của trẻ con”.

Một nhận định của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Phan Cẩm Thượng đã mở ra cho chúng ta nhiều điều từ trò chơi thôn dã của cha ông. Bài viết này chỉ là tổng hợp kiến thức nhỏ hẹp chứ chưa thể lý giải hết sự rộng lớn trong sáng tạo của người xưa.