Vị Đại tá tình báo huyền thoại trở về từ “địa ngục trần gian” (Kỳ 3)

(PLO) - Trong hoàn cảnh bị “chôn sống” nơi tử ngục Chín Hầm, bệnh tật đầy mình, không giấy, không bút, người chiến sĩ tình báo Nguyễn Minh Vân vẫn làm thơ với tấm lòng kiên trung, ghi lại những tháng ngày trong ngục tối, để tố cáo tâm địa hiểm ác của chính quyền Ngô Đình Cẩn qua 3.000 câu thơ mà ông đã tự “ghi lại” trong trí nhớ. 
Đại tá tình báo Nguyễn Minh Vân khi còn sống chụp cùng vợ
Đại tá tình báo Nguyễn Minh Vân khi còn sống chụp cùng vợ
Tác phẩm truyện thơ “Sống trong mồ” đã gây chấn động dư luận cả nước cũng như báo chí nước ngoài bởi tính chân thực và hoàn cảnh ra đời đặc biệt của nó vào năm 1973.
Khắc sâu lời trăng trối của những chiến sĩ kiên trung
Như đã nói ở kỳ 2 của bài viết, vào cuối năm 1957, chiến sĩ tình báo Nguyễn Minh Vân bị bọn Mật vụ miền Trung bắt, do có sự đầu hàng khai báo của một số cán bộ cơ sở trong lưới mà Minh Vân mới được bàn giao. 
Từ đây, người chiến sĩ cách mạng kiên trung đã trải qua một cuộc đấu trí căng thẳng với Ngô Đình Cẩn (em ruột Ngô Đình Diệm). Bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt nhưng Cẩn không thể dụ dỗ chiến sĩ cộng sản Nguyễn Minh Vân từ bỏ con đường cách mạng, hắn đã chỉ đạo quân lính tống Minh Vân vào nhà tù Chín Hầm, nơi người ta vẫn gọi là “tử ngục trần gian”.
Theo đó, một đợt hãm hại tù nhân dữ dội nhất đã bắt đầu với việc đưa Minh Vân vào hầm. Mặc dù không tra tấn bằng đòn roi nhưng bọn gác ngục đã nghĩ ra nhiều biện pháp quái dị để uy hiếp tinh thần người tù, gây căng thẳng thần kinh đến tột độ, để dằn mặt những người tù chính trị gan góc nhất. 
Đang đêm chúng kéo nhau vào hầm quát tháo, hoặc vác gậy đập vào các cửa chuồng, song sắt. Ban ngày, đang đi tuần bên ngoài, chúng thình lình bắn vài phát súng trên nóc hầm gây hoảng loạn, chấn động thần kinh khiến người đau yếu nghe muốn rụng tim. 
Và thủ đoạn tra tấn chủ yếu của chúng là cách cho ăn vô cùng man rợ, mà tai ác nhất là cho ăn cơm trộn muối kéo dài nhiều ngày. Cố Đại tá Nguyễn Minh Vân khi còn sống đã kể rằng: “Chỉ chưa đầy 3 tháng, 5 đồng chí của chúng ta đã ngã xuống: Tôi bị nhốt vào hầm ngày 10 tháng 11 năm 1961 thì ngày 20 tháng 11, đồng chí Quang qua đời, ngày 28 đồng chí Tư mất, ngày 25 tháng 1 năm 1962 đến lượt anh Chín Thính, ngày 31 tháng 1 đến anh Hội và cuối cùng là anh Bích mất ngày 5 tháng 2 năm 1962. 
Là nhân chứng về cái chết của 5 đồng chí ở hầm số 8, tôi nhớ như in những lời trăng trối của họ. Các anh đều có một mong muốn là “anh em không nên tuyệt vọng, bằng mọi cách để sống mà về với Đảng, với nhân dân, để báo cáo sự thật về hoạt động vô cùng nguy hiểm của mật vụ miền Trung và tố cáo tội ác tày trời của bè lũ Ngô Đình Cẩn ở tử ngục Chín Hầm. 
Nguyện vọng cuối cùng của những chiến sĩ can trường quyết tử, thốt lên trước lúc hy sinh đã khắc sâu vào tâm khảm tôi và tôi đã ghi lại điều đó qua 6 câu thơ: Lời trăng trối mang hồn người sắp chết/Vọng qua vách, trang nghiêm mà thống thiết/Các anh ơi! Cố sống thoát một người/Về với đồng bào - dù chỉ một người thôi! Để tố cáo kiểu hầm giam vô cùng tàn bạo/Bắt Mỹ ác - ngụy gian phải đền nợ máu!”.
Bắt đầu từ ngày 6/2/1962, sau cái chết của người thứ 9 trong hầm (trước khi Minh Vân đến đã có 4 đồng chí hy sinh), bọn mật vụ đã thay đổi thủ đoạn đối với 3 người tử tù còn sống sót, trong đó có Minh Vân. Chúng không để cho 3 người chết nhanh mà cấp thuốc uống cho họ hồi phục lại, rồi tiếp tục đày đoạ để bắt họ phải chịu đựng cực hình một cách kéo dài vô thời hạn. 
Chúng chỉ cấp một số thuốc như thuốc chữa bệnh đường ruột và B1, rồi cho ăn vài ngày cơm nóng, thế là 3 người tù ngồi dậy được. Thấy 3 người tù còn lại hồi sức được một chút là chúng lại bắt đầu cho xơi cơm sống, cơm trộn muối, uống nước lã có mùi tanh… 
Phải nhấn mạnh rằng, bọn mật vụ của Ngô Đình Cẩn thay đổi biện pháp hành hạ đối với 3 chiến sĩ cách mạng này không phải là do nhân đạo, mà chúng sợ nếu cả 3 đều chết thì âm mưu của chúng sẽ thất bại hoàn toàn, bởi vì mục đích của chúng là dùng thủ đoạn “chôn sống” một số tù nhân chính trị cứng đầu với hy vọng kết quả cuối cùng sẽ có ít nhất một người không chịu đựng được sẽ quay đầu làm tay sai cho chúng, cái mà chúng vẫn thường gọi là “chuyển hướng”. 
Vợ chồng Đại tá Nguyễn Minh Vân thăm lại địa ngục trần gian Chín hầm
Vợ chồng Đại tá Nguyễn Minh Vân thăm lại địa ngục trần gian Chín hầm 
Đối đầu với âm mưu 
hiểm độc của kẻ thù
Để đối phó với thâm ý hiểm độc của địch, người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Minh Vân đã nghĩ ra cách làm thơ kể lại mọi chuyện xảy ra trong nhà tù của mật vụ Ngô Đình Cẩn, không cho những suy nghĩ cực đoan có thể xen vào trong đầu óc mình. Lúc đầu Minh Vân nghĩ, nếu viết bằng văn xuôi làm một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bè lũ mật vụ Ngô Đình Cẩn mà trong hoàn cảnh không có giấy bút thì thật khó mà ghi nhớ được nên phù hợp nhất là làm một loại thơ kể chuyện, với lời lẽ giản dị và tình cảm chân thực từ chính lòng mình.
Thế là ông bắt đầu sáng tác truyện thơ “Sống trong mồ” vào khoảng cuối năm 1962, đầu năm 1963. Trong suốt hơn 10 tháng trời, Minh Vân đã sáng tác ngày đêm không ngừng, vừa làm vừa nhẩm thuộc. Ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963, đúng vào ngày sinh nhật con trai của chiến sĩ cộng sản Nguyễn Minh Vân, được đánh dấu bằng câu thơ thứ 3.000. 
Chính khi ấy cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm đang diễn ra và ngày hôm sau, chiều mùng 3 tháng 11 năm 1963, lúc trời sắp trạng vạng, một tốp quân đảo chính của Dương Văn Minh đến chiếm khu vực Chín Hầm, phát hiện ra những người tù đang bị giam ở hầm bí mật số 8 (trong đó có Minh Vân) nên đã lôi họ ra, đưa về Ty Công an và dinh tỉnh trưởng ở Huế để xin ý kiến giải quyết. 
Khi những người tù này ở Chín Hầm được đưa về Huế, bọn cầm quyền mới lên nhậm chức nên còn lúng túng, chưa biết giải quyết thế nào và không hiểu họ thuộc loại tù gì. Mãi đến nửa đêm, tên tỉnh trưởng phải quyết định tạm đưa họ về lao xá Ty Công an. Lúc này, chính quyền mới chưa bố trí được người nên vẫn phải sử dụng cai ngục là người của họ Ngô, nhưng tinh thần chúng lúc này rất hoang mang như rắn mất đầu. 
Tên giám thị nhà lao nói với những người tù ở Chín Hầm: “Xin các ngài hiểu cho tình cảnh của chúng tôi lúc này, chúng tôi cũng còn đang phải lo cho chính bản thân chúng tôi. Các ngài muốn làm gì thì làm, tự quản lý lấy nhau, nhưng chỉ xin các ngài đừng đập phá, vượt ngục, đừng ép chúng tôi phải nổ súng, vì bổn phận của chúng tôi là trông coi các ngài”.
Trong hoàn cảnh ấy, chiến sĩ cộng sản Minh Vân báo cáo với chi bộ về 3.000 câu thơ mà ông đã sáng tác ở Chín Hầm, mọi người đều cho rằng cần phải chép lại gửi ra ngoài trước khi địch tái lập được lại chế độ giam giữ khắc nghiệt của chúng. Vậy là mọi người đã giúp Minh Vân có đủ giấy bút, đứng xung quanh che kín để ông có thể ngồi chép lại 3.000 câu thơ trong khoảng 3 ngày. Minh Vân chép thành 2 bản, đóng thành 2 quyển sổ tay nhờ mấy bạn tù được địch thả mang ra khỏi nhà tù. 
Ba năm sau, trên đường trở về Bắc, tại chiến trường B2 Minh Vân đã nhận lại được một quyển, ông đoán quyển sổ đó là do đồng chí Minh Sơn, một bạn tù tình báo được địch thả ở Huế mang vào Sài Gòn rồi gửi lên căn cứ. 
Khi đó, cảm giác của Minh Vân thật khó tả, ông vui mừng khôn xiết khi nhận ra kỷ vật vô giá của đời cách mạng. Sau này, được sự đồng ý của đồng chí Tố Hữu, phần I của truyện thơ được in thành cuốn sách gồm 1.200 câu thơ vào năm 1973 nhằm tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt cũng như âm mưu hiểm độc của Mỹ - ngụy. Hiện, cuốn sổ thơ nhà tình báo Nguyễn Minh Vân chép tay đang được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam như một hiện vật có giá trị từ vùng địch mang ra.  
Giờ đây, Đại tá tình báo huyền thoại Nguyễn Minh Vân đã về với cõi vĩnh hằng (ông từ trần vào tháng 12/2014) nhưng những câu chuyện mà ông kể trước đây trên cuộc chiến thầm lặng năm xưa, những lần người chiến sĩ cách mạng kiên trung ấy đối mặt với kẻ thù vẫn còn mãi sống động và là bài học vô giá để giáo dục truyền thông cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau!
(Theo lời kể của cố Đại tá Nguyễn Minh Vân lúc sinh thời)

Đọc thêm