Thông tin tại buổi họp báo về Kết quả thực hiện phát triển nông nghiệp, nông thôn 6 tháng đầu năm, mục tiêu 6 tháng cuối năm 2023, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến vui mừng thông báo: toàn Ngành đạt được những kết quả cao, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê, ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT) cho biết, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản (NLTS) 6 tháng đầu năm ước đạt 3,1%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,14% (trồng trọt tăng 2,11%, chăn nuôi tăng 4,88%), lâm nghiệp tăng 3,43%, thủy sản tăng 2,96%. Tốc độ tăng GDP ngành NLTS 6 tháng đầu năm khá cao, đạt 3,07%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,14%; lâm nghiệp tăng 3,43%; thủy sản tăng 2,77%.
Đáng chú ý, trong lĩnh vực XK, nhờ chủ động tháo gỡ vướng mắc để gia tăng XK trong khó khăn về đơn hàng mở mới (nhất là thủy sản và lâm sản) và rào cản thị trường nên tổng kim ngạch XK NLTS 6 tháng đầu năm 2023 đạt 24,59 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, nhóm nông sản chính 12,79 tỷ USD, tăng 12%; sản phẩm chăn nuôi 232 triệu USD, tăng 26,5%; thuỷ sản 4,13 tỷ USD, giảm 27,4%; lâm sản chính 6,5 tỷ USD, giảm 28,2%; đầu vào sản xuất 940 triệu USD, giảm 28,9%; muối 2,4 triệu USD, giảm 14,2%.
XK rau quả lần đầu tiên đạt 2,75 tỷ USD trong 6 tháng. |
Đóng góp vào kết quả đó, có 07 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị XK đạt trên 01 tỷ USD (cà phê 2,4 tỷ USD, cao su 1,05 tỷ USD, gạo 2,3 tỷ USD, rau quả 2,75 tỷ USD, hạt điều 1,6 tỷ USD, tôm 1,56 tỷ USD, sản phẩm gỗ 4,07 tỷ USD).
Trong đó gạo và hạt điều là 02 sản phẩm tăng cả khối lượng và giá trị XK: Gạo (+22,2% khối lượng, +34,7% giá trị XK), hạt điều (+10,5% khối lượng, +7,7% giá trị XK); riêng cà phê tuy giảm về khối lượng (đạt 1,02 triệu tấn, giảm 2,2%), nhưng nhờ giá XK bình quân tăng 5,2% nên giá trị XK đạt 2,4 tỷ USD, tăng 3%.
Đáng chú ý, theo Vụ trưởng Vụ kế hoạch Nguyễn Văn Việt, mặt hàng rau quả đã đạt con số kỷ lục 2,75 tỷ USD chỉ trong 6 tháng (năm 2022 kim ngạch XK rau quả đạt 3,16 tỷ USD - PV).
“XK rau quả tăng rất nhanh trong 6 tháng đầu năm, chưa có năm nào đạt được con số như vậy trong 6 tháng. Nếu chế biến sâu, làm tốt quy trình canh tác, mở rộng thị trường…, con số này chắc chắn còn lớn hơn nữa.” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến quả quyết. Theo Thứ trưởng, với đà này khả năng XK rau quả sẽ vượt mốc kim ngạch 5 tỷ USD trong năm nay.
Chia sẻ về định hướng kim ngạch XK 10 tỷ USD rau quả đến năm 2023, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục trồng trọt cho biết, xu hướng chung sẽ giảm dần diện tích trồng trọt, điều này có thể làm giảm sản lượng nhưng mục tiêu kim ngạch XK 10 tỷ USD hoàn toàn có thế đạt được.
Theo lãnh đạo Cục trồng trọt, tới đây ngoài tập trung nâng cao chất lượng giống cây trồng sẽ gia tăng chế biến sâu để không vướng hàng rào phi thuế quan, gia tăng giá trị XK bằng giá trị các ngành hàng cao hơn như dược liệu, mỹ phẩm… “Cần có sự đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực trồng trọt. Không hy vọng có thể thay đổi ngày một ngày hai nhưng lâu dần sẽ được như lúa, cà phê hiện nay…” - ông Cường đề xuất.
Được biết, 6 tháng đầu năm 2023 thị trường XK các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam hiện nay vẫn là: Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Giá trị XK sang Trung Quốc chiếm 21,4%, tăng 7,7%; XK sang Hoa Kỳ chiếm 20,2%, giảm 32,9% và XK sang Nhật Bản chiếm 7,7%, giảm 5,3%.
Lãnh đạo Bộ NN&NTNT nhận định, bối cảnh 6 tháng cuối năm có nhiều thách thức và cơ hội. Để đạt được mục tiêu kim ngạch XK NLTS 54 - 55 tỷ USD trong năm nay, cần thực hiện các giải pháp tác động vào các sản phẩm chủ lực XK có triển vọng và khả năng tăng giá trị XK cao để bù vào những sản phẩm dự kiến có khả năng không đạt chỉ tiêu kim ngạch XK cả năm. Đặc biệt chú trọng đến mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại…