Lầm tưởng rằng mổ lấy thai an toàn hơn so với sinh thường
Trường hợp thứ nhất là bé trai Đ.T.D (1 ngày tuổi, ở Thái Bình), con thứ 2 trong gia đình. Do lo lắng biến chứng của vết mổ đẻ cũ nên gia đình quyết định sinh mổ chủ động khi thai nhi được 37 tuần. Sau sinh, trẻ được hỗ trợ thở áp lực dương liên tục qua mũi. Tuy nhiên, tình trạng suy hô hấp tiến triển, trẻ được đặt nội khí quản chuyển đến Trung tâm Sơ sinh – Bệnh viện Nhi Trung ương. Bệnh nhi vào viện trong tình trạng tổn thương phổi nặng, suy tuần hoàn.
Ngay khi tiếp nhận, các bác sĩ đã tiến hành hỗ trợ thở máy cho trẻ. Đồng thời, bệnh nhi được bơm surfatant vào phổi để hỗ trợ hô hấp, kết hợp với thuốc vận mạch, trợ tim liên tục. Sau 7 ngày điều trị, thật may mắn, tình trạng của Đ.T.D đã cải thiện và ổn định.
Trường hợp thứ hai không may mắn là bé trai 1 ngày tuổi ở Nam Định, đẻ mổ chủ động tại bệnh viện địa phương khi thai kỳ ở tuần thứ 36. Qua khai thác tiền sử, các bác sĩ cho biết do gia đình không nắm được những nguy cơ, biến chứng có thể xảy ra với cả mẹ và bé khi mổ chủ động, nên khi mẹ phải nằm theo dõi thai kỳ trong 1 tuần, gia đình đã quá lo lắng và mong muốn sinh mổ khi chưa có cơn chuyển dạ.
Trẻ sau sinh có suy hô hấp, tăng áp phổi nặng, được chuyển đến Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng tím tái, SPO2 50%, suy tuần hoàn. Ngay lập tức, các bác sĩ tiến hành cho trẻ thở máy tần số cao, duy trì thuốc trợ tim, vận mạch, thuốc giãn mạch phổi. Mặc dù đã được hòi sức tích cực nhưng tình trạng bệnh nhi không cải thiện, trẻ tử vong sau 3 ngày.
ThS.BS Nguyễn Thị Hồng Loan – Khoa Điều trị tích cực sơ sinh cho biết, sinh con qua đường âm đạo là phương pháp sinh lý và tốt nhất cho mẹ và thai. Mổ lấy thai chỉ nên thực hiện trong trường hợp mẹ có bệnh lý và thai không cho phép đẻ đường âm đạo. Tuy nhiên trong những năm gần đây, xu hướng mổ đẻ khi chưa có chuyển dạ (mổ đẻ chủ động) do chọn ngày giờ sinh đẹp trở nên phổ biến.
Hiện nay, sinh mổ chủ động ngày càng trở nên phổ biến, tuy nhiên nhiều cha mẹ chưa lường trước được những nguy cơ của phương pháp này.
Mổ lấy thai khi chưa có cơn chuyển dạ - trẻ có nhiều nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp sau sinh
Tỷ lệ mổ lấy thai ở nhiều nước trên thế giới cũng có xu hướng tăng nhanh trong vòng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tỷ lệ mổ lấy thai ở Mỹ: năm 1996 là 21%, năm 2014: 32,24%; Paraguay: 42%; Ecuador: 40%. Tại Việt Nam, tỷ lệ mổ lấy thai vẫn còn cao, khoảng 39,1%. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1985, tỷ lệ này chỉ nên từ 5-10% nhằm tránh các tai biến cho mẹ và con.
Trẻ được sinh ra do mổ đẻ chủ động có thể bị suy hô hấp với nhiều mức độ: từ khó thở thoáng qua đến suy hô hấp nặng cần thở máy, thậm chí phải cần đến ECMO (tim phổi nhân tạo). Một số trường hợp nặng có thể tử vong. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mổ lấy thai chủ động khi không có chuyển dạ khiến nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp ở trẻ cao gấp 2,6 lần so với mổ đẻ có chuyển dạ và cao gấp 1,9 lần so với đẻ thường.
Trong thời kì bào thai, phổi bị dịch lấp đầy nên quá trình trao đổi khí phụ thuộc vào bánh rau. Khi bánh rau ngừng hoạt động chức năng, phổi phải đảm nhiệm vai trò này. Trong cuộc đẻ thường, tử cung liên tục co làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi khí của bánh rau gây ra tình trạng giảm oxy của thai nhi, do đó phế nang phải được thông khí và máu qua phổi được tăng cường.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển dạ kích thích tăng sản xuất adrenalin của thai nhi và tăng giải phóng hormone thyrotropin của bà mẹ. Cả hai quá trình này có tác dụng làm tế bào phổi giảm tiết dịch và bắt đầu hấp thu dịch phổi ở trong phế nang, là bước chuẩn bị để phổi bắt đầu thực hiện chức năng hô hấp. Ở trẻ đẻ mổ chủ động không có quá trình này, dẫn đến phổi trẻ khi sinh ra chứa nhiều dịch hơn, dễ bị mắc các vấn đề về hô hấp sau sinh.
Để tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra do mổ đẻ chủ động, bác sĩ Loan khuyến cáo, cha mẹ không nên lưạ chọn phương thức đẻ này khi không có chỉ định mổ đẻ bắt buộc. Cần trao đổi những lo lắng với bác sĩ Sản khoa để được hỗ trợ, chuẩn bị cho quá trình sinh an toàn và tốt nhất.