Giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng giao thông vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể đã nêu rõ sự cần thiết đầu tư các dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1); Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1); Biên Hòa -Vũng Tàu (giai đoạn 1). Theo đó, việc sớm đầu tư 3 dự án nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết, thông báo của Bộ Chính trị; đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng giao thông vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, phát huy tiềm năng, khai thác lợi thế của vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, việc xây dựng 3 dự án còn giúp cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung và các vùng Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng; tạo tiền đề, động lực, không gian mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, xóa đói giảm nghèo...
Về phạm vi, quy mô đầu tư, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu dài 53,7 km, qua 2 tỉnh, kết nối TP Biên Hòa với cảng biển Cái Mép - Thị Vải; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 - 6 làn xe.
Dự án đường cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột dài 117,5 km, qua 2 tỉnh, kết nối TP Buôn Ma Thuột với cảng biển Nam Vân Phong; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 làn xe.
Dự án đường cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng dài 188,2 km, qua 4 tỉnh/TP, kết nối TP Châu Đốc với cảng biển Trần Đề; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 4 làn xe.
Về hình thức đầu tư, đối với dự án Biên Hòa - Vũng Tàu, Chính phủ kiến nghị đầu tư Dự án theo hình thức đầu tư công; sau khi đưa vào khai thác sẽ thu phí để hoàn trả vốn ngân sách nhà nước. Hình thức này bảo đảm tiến độ dự án và vẫn phù hợp với định hướng huy động nguồn lực xã hội.
Đối với dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, mặc dù mang lại lợi ích kinh tế - xã hội rất lớn nhưng phương án tài chính hoàn vốn từ thu phí không khả thi, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vượt quá quy định của pháp luật. Do vậy, Chính phủ lựa chọn hình thức đầu tư công; sau khi hoàn thành sẽ thu phí để hoàn trả vốn ngân sách nhà nước.
Theo tờ trình Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi 2 dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội và đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày, đây là hai dự án có vai trò liên kết Vùng, thúc đẩy phát triển đô thị hóa, có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội.
Cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng không gian phát triển
Việc đầu tư hoàn thành 2 dự án này sẽ góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tăng khả năng kết nối giao thông giữa các tỉnh trong Vùng, phù hợp với Quy hoạch giao thông quốc gia, giúp mở rộng không gian phát triển, kéo giãn mật độ dân cư khu vực nội thị, giảm áp lực cho giao thông nội đô và các tuyến đường hiện hữu.
Theo đề xuất của Chính phủ, dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có chiều dài 112,8 km, gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long, đi qua địa phận TP Hà Nội (58,2km); Hưng Yên (19,3km); Bắc Ninh (dài 25,6km).
Dự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh dài 76,34 km, đi qua địa phận TP Hồ Chí Minh (47,51km); Đồng Nai (11,26km); Bình Dương (10,76km); Long An (6,81km).
Đối với dự án đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và vốn BOT của nhà đầu tư, trong đó vốn BOT 29.447 tỷ đồng. D
ự án đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh, sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 75.378 tỷ đồng, sử dụng toàn bộ vốn ngân sách nhà nước, trong đó ngân sách Trung ương là 38.741 tỷ đồng.
Đánh giá kỹ khả năng bố trí nguồn lực, hấp thụ vốn
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, đại diện cơ quan thẩm tra các dự án, cho biết: Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư 3 Dự án đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1); Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1); Biên Hòa -Vũng Tàu (giai đoạn 1) nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã được Đại hội XIII của Đảng thông qua. Đồng thời, việc đầu tư các tuyến cao tốc này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các vùng có tuyến cao tốc đi qua, giúp tăng cường việc bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, một số ý kiến trong Ủy ban đề nghị cần đánh giá kỹ tính cấp thiết, khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư công triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với lạm phát, khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối, hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu.
Về các dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, do hai tuyến này có lưu lượng xe thấp, thời gian hoàn vốn dài, nên việc đầu tư theo phương thức đối tác công - tư là khó khả thi. Vì vậy, việc Chính phủ đề xuất áp dụng hình thức đầu tư công là phù hợp.
Về dự án Biên Hòa - Vũng Tàu, một số ý kiến cho rằng, Dự án này đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư theo phương thức đối tác công - tư, trong bối cảnh nguồn lực nhà nước còn hạn chế nhưng đang phải triển khai thực hiện nhiều dự án hạ tầng giao thông quan trọng thì việc thu hút được các nguồn lực ngoài nhà nước tham gia đầu tư là rất cần thiết. Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị cân nhắc tiếp tục đầu tư Dự án này theo phương thức đối tác công - tư.
Đối với 2 dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội và đường Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh, Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư hai dự án này nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã được Đại hội XIII của Đảng thông qua và phù hợp với Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, trong đó yêu cầu “khẩn trương chuẩn bị đầu tư, sớm khởi công và cơ bản hoàn thành các dự án đường Vành đai 3, 4 của khu vực động lực Hà Nội, TP Hồ Chí Minh”.
Về tiến độ hoàn thành các Dự án, theo cơ quan thẩm tra, việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc cùng một thời gian, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2022 - 2025 sẽ cần một nguồn lực rất lớn, do đó sẽ khó bảo đảm tiến độ cơ bản hoàn thành trong năm 2025.
Ủy ban Kinh tế đề nghị đánh giá bổ sung đầy đủ về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, nguồn nhân lực, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu... để có giải pháp kịp thời nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho 2 Dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai.
“Chính phủ và các địa phương cần cam kết trách nhiệm tổ chức thực hiện bảo đảm tiến độ, chất lượng cho 2 Dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai”, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh.
Về sơ bộ tổng mức đầu tư, có ý kiến trong Ủy ban đề nghị làm rõ việc tính toán về sơ bộ tổng mức đầu tư của từng dự án thành phần cũng như toàn bộ 2 dự án, bổ sung, làm rõ hơn về cơ cấu chi phí, suất đầu tư đối với các đoạn của 2 dự án và so sánh với các dự án tương tự. Ủy ban Kinh tế đề nghị, trong bước nghiên cứu khả thi, Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, chuẩn xác tổng mức đầu tư 2 dự án để bảo đảm tính đúng, tính đủ các chi phí theo quy định.