Đảng và Nhà nước cam kết hành động quyết liệt, toàn diện và đồng bộ (thể chế, nguồn lực, công nghệ) với niềm tin rằng khu vực tư nhân có thể trở thành động lực tăng trưởng hàng đầu của nền kinh tế. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.
Một là, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động: Nghị quyết 68 khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, chứ không còn là “thành phần bổ trợ” như trước.
Quan điểm này phù hợp với xu thế quốc tế: tại Trung Quốc khu vực tư nhân hiện đóng góp khoảng 60% GDP. Thông điệp này thống nhất từ Trung ương đến địa phương, xóa bỏ triệt để mọi định kiến đối với khu vực tư nhân; doanh nghiệp, doanh nhân được tôn vinh là “chiến sĩ” kinh tế. Nhà nước chuyển hẳn sang vai trò kiến tạo, phục vụ, chấm dứt can thiệp hành chính tùy tiện và xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, qua đó củng cố niềm tin giữa chính quyền và doanh nghiệp.
"Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới đã trở thành một trụ cột của nền kinh tế, nhưng nhiều "nút thắt" cố hữu vẫn kìm hãm khu vực này phát triển xứng tầm. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời nhằm mở khóa những điểm nghẽn đó, tạo bệ phóng chính sách chưa từng có giúp kinh tế tư nhân cất cánh mạnh mẽ trong 5 năm tới và vững bước"
Hai là, cải cách thể chế, bảo đảm quyền và môi trường kinh doanh: Nghị quyết đề ra chương trình cải cách thể chế sâu rộng, được ví như một cuộc cách mạng về môi trường kinh doanh. Tư duy “không quản được thì cấm” và cơ chế “xin - cho” bị xóa bỏ. Thay vào đó, nguyên tắc thị trường được đề cao: doanh nghiệp được tự do kinh doanh mọi ngành nghề pháp luật không cấm, và mọi hạn chế phải có căn cứ pháp lý rõ ràng. Hệ thống pháp luật sẽ minh bạch, ổn định, bảo vệ quyền tài sản và cạnh tranh bình đẳng cho khu vực tư nhân.
Đặc biệt, ngay trong năm 2025 sẽ cắt giảm tối thiểu 30% thời gian thủ tục, 30% chi phí tuân thủ và 30% điều kiện kinh doanh – bước đột phá để “dọn đường” cho doanh nghiệp. Song song đó, Chính phủ đẩy mạnh chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ số để thủ tục nhanh gọn, chi phí thấp, loại bỏ cơ hội nhũng nhiễu. Môi trường kinh doanh nhờ vậy trở nên thông thoáng chưa từng có. Singapore – quốc gia hàng đầu thế giới về môi trường kinh doanh – đã thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân nhờ thể chế minh bạch, ổn định.
Ba là, tháo gỡ vướng mắc về đất đai, vốn và nhân lực: Nghị quyết 68 tập trung giải quyết những khó khăn cố hữu của doanh nghiệp tư nhân trong tiếp cận đất đai, vốn và nhân lực. Nhà nước sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia liên thông, công khai để doanh nghiệp dễ tra cứu quỹ đất, rút ngắn thời gian giao đất, cấp phép sử dụng.
Xem xét giảm ít nhất 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu cho dự án đầu tư mới, giúp giảm chi phí đầu vào. Về vốn, phát triển các quỹ đầu tư khởi nghiệp, quỹ bảo lãnh tín dụng và nhiều kênh huy động khác để doanh nghiệp dễ tiếp cận vốn hơn. Bên cạnh đó, triển khai chương trình đào tạo quy mô lớn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Bốn là, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh: Kinh tế tư nhân được kỳ vọng trở thành đầu tàu của đổi mới sáng tạo quốc gia. Nghị quyết nhấn mạnh khu vực này phải là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thực tế quốc tế cho thấy đổi mới sáng tạo gắn liền với khu vực tư nhân: Israel – “quốc gia khởi nghiệp” – chi hơn 5% GDP cho R&D (tỷ lệ cao nhất thế giới) để thúc đẩy các doanh nghiệp công nghệ; Hàn Quốc chi khoảng 5% GDP, góp phần tạo ra nhiều tập đoàn tư nhân công nghệ hàng đầu. Nhà nước sẽ ban hành chính sách đột phá thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, kinh tế số, năng lượng xanh, dành ưu đãi đặc biệt về thuế và đất đai cho các dự án R&D, đổi mới sáng tạo.
Mục tiêu đến 2030, trình độ công nghệ và đổi mới của Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN, năng suất lao động khu vực tư nhân tăng 8,5–9,5%/năm. Với những chính sách này, một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo do tư nhân dẫn dắt sẽ hình thành, thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên số.
Năm là, tăng cường liên kết giữa khu vực tư nhân với nhà nước và FDI: Nghị quyết 68 thúc đẩy liên kết chặt chẽ giữa kinh tế tư nhân với khu vực công và FDI theo nguyên tắc cùng thắng. Tư nhân được tạo điều kiện tham gia các dự án quan trọng quốc gia vốn trước đây do khu vực công thực hiện; mở rộng hợp tác công – tư (PPP) để huy động hiệu quả nguồn lực xã hội cho các dự án lớn, qua đó giúp doanh nghiệp tư nhân trưởng thành.
Doanh nghiệp FDI và nhà nước tăng cường gắn kết với các nhà cung ứng trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia sâu vào chuỗi giá trị, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và nâng cao giá trị gia tăng.
Sáu là, hình thành các doanh nghiệp tư nhân tầm cỡ quốc tế: Một mục tiêu quan trọng của Nghị quyết 68 là phát triển các doanh nghiệp tư nhân tầm cỡ khu vực và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030 có ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt mục tiêu này, Nhà nước sẽ có chính sách đặc thù hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu ngành mở rộng quy mô, vươn ra thị trường thế giới (ưu đãi về vốn, đất đai, nhân lực cho các dự án chiến lược).
Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm và doanh nghiệp Việt, giúp công ty tư nhân quảng bá và thâm nhập thị trường quốc tế. Nhờ môi trường thuận lợi, kỳ vọng xuất hiện nhiều doanh nghiệp tư nhân tầm cỡ quốc tế trong tương lai. Những tập đoàn tư nhân hùng mạnh này không chỉ đóng góp lớn cho GDP, ngân sách, mà còn dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ hơn cùng phát triển, tạo lan tỏa tích cực trong nền kinh tế.
Bảy là, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh: Song song với việc nuôi dưỡng “đầu tàu” lớn, Nghị quyết 68 đặc biệt chú trọng nâng đỡ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh – vốn chiếm số đông nhưng còn yếu thế. Kinh nghiệm Indonesia cho thấy đây là trụ cột kinh tế: 64,2 triệu MSME đóng góp 61% GDP và tạo ra 97% việc làm tại Indonesia.
Nghị quyết 68 lần đầu tiên áp dụng những chính sách mạnh mẽ để thúc đẩy khối này chuyển mình. Cụ thể, bãi bỏ lệ phí môn bài, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm đầu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập, giúp giảm gánh nặng chi phí khởi nghiệp; đồng thời đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, mở rộng tiếp cận vốn (tín dụng vi mô, quỹ khởi nghiệp...) để hàng triệu hộ kinh doanh cá thể bước vào khu vực chính thức. Mục tiêu cả nước có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 hoàn toàn khả thi nếu tạo được làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ từ các cơ sở kinh doanh nhỏ nhờ những chính sách hỗ trợ đột phá này.
Tám là, nâng cao đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội: Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh: doanh nghiệp làm giàu chân chính, minh bạch, tuân thủ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh; kiên quyết chống nhũng nhiễu, hối lộ. Doanh nhân được khuyến khích phát huy tinh thần dân tộc, trách nhiệm xã hội và tham gia tích cực vào quá trình hoạch định chính sách.
Về lộ trình 5 năm và tầm nhìn 2045, các giải pháp đột phá trên được kỳ vọng sẽ tạo chuyển biến rõ nét ngay trong 5 năm tới, đồng thời đặt nền móng cho tầm nhìn dài hạn đến 2045. Đến năm 2030, phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp (20 DN/1.000 dân), khu vực tư nhân tăng trưởng 10–12%/năm, đóng góp 55–58% GDP, 35–40% ngân sách và tạo việc làm cho 84–85% lao động. Đến năm 2045, phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp, đóng góp trên 60% GDP; khu vực tư nhân Việt Nam vươn tầm cạnh tranh quốc tế.
Với Nghị quyết 68, “bệ phóng” chính sách đã sẵn sàng – lần đầu tiên khu vực tư nhân được trao cơ hội và nguồn lực toàn diện để vươn mình mạnh mẽ. Từ đổi mới nhận thức đến cải cách thể chế, từ hỗ trợ nguồn lực đến thúc đẩy công nghệ – mọi điều kiện cần thiết đã hội tụ đầy đủ để tạo nên xung lực phát triển mới. Nếu triển khai quyết liệt những cam kết này, mục tiêu đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu có thể trở thành hiện thực trong thập kỷ tới. “Chìa khóa” đã trong tay; thành công phụ thuộc vào hành động của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp. Với quyết tâm cải cách mạnh mẽ, chúng ta có cơ sở để tin vào kỷ nguyên bứt phá của kinh tế tư nhân.
TS. Trần Văn Khải
Phó Bí thư Đảng ủy,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội
(Còn tiếp)