Thể chế trong Kỷ nguyên mới

Bài 2: Tháo gỡ điểm nghẽn – Kinh tế tư nhân đã đủ lực nhưng thiếu đà

(PLVN) -  Tiếp bài " Nghị quyết số 68-NQ/TW – Bệ phóng cho kinh tế tư nhân Việt Nam" 
Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP và hơn 30% ngân sách nhà nước. Nguồn ảnh: TTXVN
Khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP và hơn 30% ngân sách nhà nước. Nguồn ảnh: TTXVN

Khu vực kinh tế tư nhân – được Đảng ta khẳng định là “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia – hiện đóng góp khoảng 51% GDP và hơn 30% ngân sách nhà nước, nhưng sự phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Để kinh tế tư nhân thực sự “cất cánh”, cần thẳng thắn nhìn nhận thực trạng và tháo gỡ các điểm nghẽn theo tinh thần Nghị quyết 68.

Thực trạng: Đông về số lượng nhưng “chưa muốn lớn”

Việt Nam hiện có gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân và hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, đóng góp khoảng một nửa GDP. Tuy nhiên, 97% doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ (chỉ khoảng 3% là doanh nghiệp lớn), thiếu những “đại bàng” dẫn dắt thị trường. Năng suất lao động của khu vực tư nhân thấp nhất trong các thành phần kinh tế; mức đầu tư cho công nghệ và R&D cũng rất nhỏ (khoảng 0,5% GDP).

“Nghị quyết số 68-NQ/TW là lời hiệu triệu để doanh nhân Việt trở thành “chiến binh thời bình” – dấn thân, sáng tạo vì một Việt Nam hùng cường. Khu vực tư nhân được trao cơ hội và nguồn lực toàn diện, dẫn dắt kinh tế quốc gia tới phồn vinh 2045”

Nhiều hộ kinh doanh và doanh nghiệp nhỏ vẫn “không muốn lớn” vì ngại thủ tục và thuế khi chuyển lên doanh nghiệp. Thuế khoán hộ kinh doanh chỉ khoảng 1,5% doanh thu, trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp 20% lợi nhuận – không ít chủ hộ tự hỏi “lớn để làm gì?”, nếu làm lớn lại phải gánh nhiều chi phí. Do đó, phần lớn hộ kinh doanh vẫn “đóng khung” ở quy mô nhỏ, đóng góp chưa đến 1,6% ngân sách.

Hệ quả là khu vực tư nhân tuy đông đảo nhưng sức đóng góp chưa tương xứng. Mục tiêu có 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 và 1,5 triệu vào 2025 đã không đạt (đến nay mới gần 1 triệu). Tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới/đóng cửa cũng giảm mạnh (2019 khoảng 3,9:1, đến 2024 chỉ còn khoảng 1,9:1). Nói cách khác, khu vực tư nhân tuy đông nhưng “đã đủ lực mà thiếu đà” – nguồn lực có, nhưng thiếu cú hích bứt phá.

Điểm nghẽn 1: Thể chế, thủ tục hành chính rườm rà, “xin – cho”

Môi trường thể chế và thủ tục kinh doanh còn nhiều vướng mắc. Thủ tục hành chính phức tạp, luật pháp chồng chéo gây tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Cơ chế “xin – cho” vẫn phổ biến, doanh nghiệp phải xin quá nhiều giấy phép con, dẫn đến chi phí ngoài luồng. Khảo sát PCI 2023 cho thấy 59,1% doanh nghiệp tư nhân đánh giá thủ tục rườm rà và chi phí không chính thức là rào cản lớn nhất. Tình trạng nhũng nhiễu, “phong bì” khiến doanh nghiệp e ngại, môi trường kinh doanh thiếu bình đẳng.

Doanh nghiệp tư nhân còn phải chịu gánh nặng tuân thủ lớn. Mỗi năm, một doanh nghiệp mất hàng trăm giờ cho thủ tục thuế, bảo hiểm..., cao hơn nhiều so với doanh nghiệp ở Singapore, Malaysia. Việc giải quyết tranh chấp, phá sản cũng kéo dài, rủi ro pháp lý cao, làm giảm động lực đầu tư dài hạn. Không ít người ngại khởi nghiệp trong nước, chọn ra nước ngoài để tìm môi trường thông thoáng hơn. Thủ tục rườm rà và cơ chế quan liêu chẳng khác nào “chiếc phanh tay” kìm hãm đà tiến của kinh tế tư nhân.

Điểm nghẽn 2: Khó tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ – cạnh tranh chưa bình đẳng

Doanh nghiệp tư nhân cũng gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực thiết yếu (vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao, công nghệ), đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Về vốn, khoảng 60% doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không tiếp cận được vốn vay ngân hàng; tín dụng chủ yếu chảy vào doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp lớn. Ngân hàng đòi hỏi tài sản thế chấp và thông tin minh bạch mà nhiều doanh nghiệp nhỏ chưa đáp ứng. Các quỹ hỗ trợ hiện có chưa thấm vào đâu.

Về đất đai, thủ tục đất đai phức tạp, chậm trễ khiến doanh nghiệp khó có mặt bằng sản xuất. Chỉ khoảng 40% doanh nghiệp không vướng mắc về đất đai (2023) và có tới 73% phải hoãn hoặc bỏ kế hoạch kinh doanh vì thủ tục đất đai. Chi phí thuê, thuế đất cao cũng là rào cản lớn, trong khi một số DNNN giữ quỹ đất lớn lại sử dụng kém hiệu quả.

Ưu đãi chính sách, DNNN và FDI thường được hưởng ưu đãi nhiều hơn về vốn, thuế, đất... Ngược lại, doanh nghiệp tư nhân trong nước đôi khi bị coi như “con ghẻ”, phải tự bươn chải với rất ít hỗ trợ. Những chênh lệch này dần mài mòn ý chí cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân.

Tóm lại, doanh nghiệp tư nhân như “chân đất” phải chạy đua với “vận động viên đi giày đinh” là DNNN và FDI. Họ có tiềm năng, nhưng đang thiếu điều kiện thuận lợi – vốn liếng hạn hẹp, đất đai khó tiếp cận, nhân lực và công nghệ đều yếu thế – khiến cuộc cạnh tranh phát triển trở nên không cân sức.

Điểm nghẽn 3: Hạn chế nội tại – quản trị yếu, tầm nhìn ngắn, thiếu liên kết, sợ rủi ro

Bản thân nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng bộc lộ những điểm yếu cần khắc phục. Quản trị doanh nghiệp còn yếu kém: phần lớn quản lý theo kiểu gia đình, thiếu chuyên nghiệp và thiếu minh bạch, khiến đối tác và ngân hàng e ngại, khó gọi vốn. Tầm nhìn kinh doanh cũng ngắn hạn: nhiều chủ doanh nghiệp chỉ lo lợi nhuận trước mắt “ăn xổi ở thì”, ngại đầu tư cho R&D, đào tạo nhân lực, xây dựng thương hiệu, dẫn đến thiếu vắng sản phẩm đột phá.

Tinh thần liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp tư nhân rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp cạnh tranh manh mún, “mạnh ai nấy làm”, mỗi doanh nghiệp nhỏ lẻ “tự bơi” nên thua thiệt trước đối thủ ngoại. Thêm vào đó, tâm lý sợ rủi ro khiến nhiều doanh nhân “không dám lớn”, chỉ thích “ăn chắc mặc bền” giữ doanh nghiệp ở quy mô nhỏ cho an toàn. Sự thận trọng thái quá này làm khu vực tư nhân thiếu những bước đi táo bạo để vươn tầm như doanh nghiệp ở các nước phát triển.

Tóm lại, các hạn chế nội tại nói trên, kết hợp với rào cản về thể chế và nguồn lực, đang kìm hãm khu vực tư nhân chưa phát huy hết vai trò đầu tàu tăng trưởng.

Hệ quả: Năng suất thấp, thiếu sáng tạo, khó vươn tầm – và “chảy máu” doanh nhân khởi nghiệp

Với các điểm nghẽn trên, kinh tế tư nhân Việt Nam đến nay vẫn chưa bứt phá, đóng góp chưa tương xứng với tiềm năng. Năng suất lao động của khu vực tư nhân còn thấp xa so với khu vực nhà nước và FDI; hiệu quả đầu tư cũng thấp (hệ số ICOR cao hơn nhiều). Nhiều doanh nghiệp tư nhân kinh doanh kém hiệu quả, tài chính yếu, dễ tổn thương trước các cú sốc (gần 50% doanh nghiệp tư nhân báo lỗ những năm gần đây).

Khu vực tư nhân cũng thiếu đổi mới sáng tạo. Chi cho R&D quá thấp, doanh nghiệp tư nhân chưa tạo được nhiều sản phẩm công nghệ cao hay thương hiệu tầm cỡ. Nền kinh tế vì thế vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI ở phân khúc giá trị cao; doanh nghiệp nội địa mãi loay hoay ở phân khúc thấp.

Môi trường trong nước chưa thuận lợi còn dẫn đến “chảy máu chất xám”. Nhiều startup Việt lựa chọn lập công ty ở Singapore, Mỹ… thay vì ở lại quê nhà. Theo VCCI, hầu hết startup tiềm năng của Việt Nam đều tìm kiếm vốn nước ngoài hoặc đăng ký kinh doanh ở nước ngoài. Hệ sinh thái khởi nghiệp trong nước vì thế mất đi nhân tài, Việt Nam mất cơ hội có những doanh nghiệp công nghệ đột phá – các lợi ích tương lai (việc làm chất lượng cao, thuế…) cũng chảy sang quốc gia khác.

Nhìn chung, các điểm nghẽn về thể chế, nguồn lực và hạn chế nội tại đang níu chân khu vực tư nhân, khiến động lực tăng trưởng quan trọng này chưa phát huy hết sức mạnh. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời chính nhằm giải bài toán đó, khơi thông tiềm năng của “mỏ vàng” kinh tế tư nhân cho phát triển đất nước.

Tháo rào cản để kinh tế tư nhân cất cánh cùng Nghị quyết 68

Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị mở ra bước ngoặt để tháo gỡ điểm nghẽn, tạo cú hích cho kinh tế tư nhân “cất cánh”. Văn kiện này thể hiện quyết tâm cao của Đảng, đặt mục tiêu đến năm 2030 cả nước có 2 triệu doanh nghiệp, và loạt giải pháp đột phá: cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục; xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân về vốn, đất đai, nhân lực; thúc đẩy đổi mới sáng tạo; khuyến khích hộ kinh doanh “lên đời” doanh nghiệp...

Nếu thực thi quyết liệt, rào cản sẽ được dỡ bỏ và khu vực tư nhân Việt Nam có thể bùng nổ về cả số lượng lẫn chất lượng. Những doanh nghiệp tư nhân đầu đàn sẽ xuất hiện, khu vực tư nhân đóng góp nhiều hơn cho GDP, ngân sách và trở thành mũi nhọn trong các ngành hiện đại – góp phần hiện thực hóa mục tiêu đất nước thịnh vượng, thu nhập cao vào năm 2045.

Muốn vậy, Nghị quyết 68 cần được triển khai đồng bộ, chuyển hóa thành hành động cụ thể. Cần nhanh chóng hoàn thiện luật pháp, cắt giảm “giấy phép con”, chi phí tuân thủ; cải cách mạnh bộ máy hành chính phục vụ doanh nghiệp. Đồng thời, mỗi doanh nghiệp tư nhân cũng phải tự đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh để tận dụng cơ hội. Nhà nước “cởi trói” và doanh nghiệp “tự vươn mình” – nếu song hành, kinh tế tư nhân sẽ bước vào kỷ nguyên phát triển mới đầy hứa hẹn.

Từ những điểm nghẽn đã nhận diện, bài viết tiếp theo (Bài 3) sẽ tập trung phân tích các giải pháp cụ thể và lộ trình hành động nhằm chắp cánh cho kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết 68. Chỉ khi rào cản được tháo gỡ và động lực được bồi đắp, khu vực tư nhân Việt Nam mới thật sự cất cánh, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển phồn vinh của đất nước.

TS. Trần Văn Khải

Phó Bí thư Đảng ủy,

Phó Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội

(Còn tiếp)

Đọc thêm