Những con số biết nói
TS. Dương Minh Tâm, Trưởng phòng Rối loạn stress, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai cho hay, nghiên cứu năm 2019 - 2020 tại Bệnh viện Nhi Trung ương với đối tượng là học sinh từ 10-19 tuổi cho thấy, có tới 55,6% số trẻ có sang chấn tâm lý (trong đó áp lực học tập chiếm 20%, áp lực gia đình 20,5% và quan hệ với bạn trong trường 8,9%).
Đặc biệt, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, stress và trầm cảm gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 14 và 17, là thời điểm học sinh thi chuyển cấp lên trung học phổ thông và đại học. Điều đáng chú ý là stress gặp nhiều hơn ở trẻ ngoan và học khá. Trong thực tế điều trị của mình, TS. Dương Minh Tâm cho biết, phần lớn các trẻ đến khám và điều trị trầm cảm, stress đến từ các trường chuyên, lớp chọn. Với những trẻ ngoan, có thành tích cao trong học tập thường có những áp lực tự thân hơn là những trẻ mải chơi, bởi áp lực vị trí trong trường lớp, hình ảnh bản thân trong mắt gia đình, thầy cô và thường sống, suy nghĩ có trách nhiệm hơn khiến trẻ phải nỗ lực không ngừng. Những trẻ này thường căng thẳng và bị stress, nhất là khi không đạt được kỳ vọng sẽ bị nặng hơn trẻ khác. Điều này cho thấy các áp lực từ việc học tập, áp lực từ gia đình, áp lực thành tích là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress ở lứa tuổi học đường.
TS Dương Minh Tâm cũng đưa ra một thông tin gây sốc là qua khai thác bệnh sử, phần lớn các em học sinh bị stress mãn tính, quá trình stress đã âm thầm diễn biến từ khoảng 3 - 5 năm trước và áp lực thi cử chỉ là “giọt nước tràn ly”. “Diễn biến tâm lý, sự thay đổi tính cách của học sinh trùng với lứa tuổi dậy thì nên nhiều bậc cha mẹ mặc nhiên chấp nhận sự thay đổi đó. Chỉ đến khi trẻ có những hành vi làm tổn thương bản thân hoặc quá bất thường thì bố mẹ mới nhận diện và đưa trẻ đến viện thì thường trẻ đã ở giai đoạn trầm cảm, stress nặng!” – Trưởng phòng Rối loạn stress, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai nhận định.
Để nhận diện được dấu hiệu trầm cảm, stress ở trẻ, TS. Minh Tâm chia sẻ, stress thường diễn biến rất âm thầm, tuy nhiên khi trẻ có những hành vi sau, các bậc làm cha mẹ nên quan tâm: đầu tiên là hành vi tự hủy hoại bản thân (các vết cứa ở cẳng tay hoặc đùi, cắn móng tay, bấm vào đầu ngón tay…). Việc tự làm đau bản thân này là cách để giải tỏa sự bấn loạn trong cảm xúc bản thân của trẻ.
Ngoài ra, trẻ có những hành vi bất thường, trái ngược với tính cách trước kia như trẻ trở nên hung hăng, chống đối hoặc tuân thủ quá mức, có sự rối loạn trong hành vi ăn uống như ăn quá ít hoặc quá nhiều, bị rối loạn giấc ngủ như ngủ quá nhiều hoặc quá ít, buồn chán, giảm kết nối với xã hội... Hoặc có dạng stress cơ năng như trẻ bị đau bụng, đau đầu, đau dạ dày, xuất huyết tiêu hóa... Những cơn đau này thường xuất hiện khi trẻ chuẩn bị bước vào kì thi hoặc trước sự kiện quan trọng. Khi sự kiện qua đi thì các cơn đau này giảm triệu chứng.
Phân tích về những yếu tố nguy cơ đối với việc hình thành ý nghĩ tự tử ở trẻ em và thanh, thiếu niên, bác sĩ Nguyễn Trọng An, nguyên Phó Cục trưởng Cục Trẻ em, Bộ LĐ-TB&XH cho rằng, đây là vấn đề tâm lý xã hội và chúng ta cần thiết phải có một sơ đồ nguyên nhân như sức ép từ gia đình, nhà trường, môi trường học tập, bạn bè cùng trang lứa, tình cảm nam nữ và vấn đề yêu đương của học sinh, vấn đề bị lạm dụng, bạo lực, xâm hại tình dục, sử dụng ma túy học đường do bị lôi kéo, ép buộc…
“Hậu quả tác động kéo dài, lặp đi lặp lại của các vấn đề xã hội sẽ gây ra những rối nhiễu về tâm lý xã hội. Bên cạnh đó là sự thay đổi về tâm, sinh lý ở lứa tuổi vị thành niên nên trẻ rất dễ bị xúi giục, kích động dẫn tới những hành động bột phát. Khi có thêm một hành động gây hiện tượng “giọt nước tràn ly”, có thể dẫn tới vấn đề trẻ em tự thương, tự tử”, theo bác sĩ An.
Sự gắn kết gia đình rất quan trọng
Cũng theo TS. Dương Minh Tâm, stress mãn tính có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nếu nó không được xử lý thích hợp. Stress mãn tính làm suy yếu hệ thống miễn dịch của cơ thể, dẫn đến một số bệnh về tinh thần và thể chất như trầm cảm và các bệnh tim mạch. Để ứng phó với tình trạng này, các gia đình có thể tham khảo nguyên tắc “5 chữ R” bao gồm: Recognition (xác định nguyên nhân, nguồn gốc của stress, giáo dục và nâng cao nhận thức, để vượt qua, thích ứng với stress); Relationships (tìm kiếm sự giúp đỡ, hỗ trợ, trấn an); Removal (loại bỏ các yếu tố gây stress và các yếu tố kích thích); Relaxation (thư giãn thông qua các kỹ thuật như thiền, xoa bóp, tập thở…); Re-engagement (tái tương tác thông qua tái tiếp xúc có quản lý và giải mẫn cảm).
Bên cạnh nguyên tắc “5 chữ R”, một yếu tố đơn giản, dễ để thực thi là hỗ trợ kiểm soát giấc ngủ cho trẻ. Giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần và cũng là yếu tố cần được ưu tiên để kiểm soát căng thẳng. Với trẻ từ 6 đến 12 tuổi nên ngủ từ 9 đến 12 tiếng mỗi đêm. Thanh, thiếu niên cần 8 đến 10 giờ mỗi đêm. Ngoài ra, các bậc cha mẹ cần biết rằng stress gây bệnh và thể bệnh phụ thuộc chủ yếu vào nhân cách. Với những trẻ có nhân cách yếu, lãng mạn, nhân cách khép kín hoặc thiếu ý chí, thiếu nghị lực, nhút nhát, tự ti, mặc cảm, thiếu kìm chế, dễ bùng nổ, xung đột thường dễ bị stress hơn trẻ có nhân cách mạnh. Vì vậy, gia đình nên xây dựng cho trẻ một môi trường thi đua, phấn đấu, tương trợ và cùng tiến. Điều này giúp trẻ chống đỡ với stress tốt hơn.
“Ngoài ra, tập luyện, hoạt động thể chất là một liều thuốc giảm căng thẳng cần thiết cho mọi người ở mọi lứa tuổi. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoài trời, dành thời gian trong thiên nhiên cũng là một cách hiệu quả để giảm căng thẳng và cải thiện sức khỏe tổng thể. Đặc biệt, sự gắn kết gia đình thông qua những buổi tâm sự, trò chuyện về những tình huống căng thẳng với một người lớn đáng tin cậy có thể giúp trẻ em và thanh, thiếu niên nhìn nhận mọi thứ và tìm ra giải pháp” – TS. Dương Minh Tâm đưa ra lời khuyên.
Theo bác sĩ Nguyễn Trọng An, giải pháp căn cơ để giải quyết tình trạng tự tử ở trẻ em và thanh, thiếu niên là đẩy mạnh giáo dục gia đình. Các cha mẹ nên là người bạn thân thiết của con, hãy lắng nghe trẻ nói và chia sẻ cùng con, cũng như quan tâm, theo dõi con từ ăn ngủ cho đến học tập ở trường. Cùng với đó, chúng ta cần sớm kiện toàn mạng lưới các cán bộ công tác xã hội trẻ em và cộng tác viên bảo vệ trẻ em ở cộng đồng. Về phía nhà trường, cần thiết cải tổ lại hệ thống giáo dục theo hướng: tăng cường tập trung vào việc dạy trẻ em những kỹ năng cần thiết ứng phó với các khó khăn về cảm xúc và tâm lý; giảm bớt áp lực học hành bằng cách đánh giá lại lượng kiến thức học sinh cần học; đầu tư xây dựng các dịch vụ tư vấn tâm lý và công tác xã hội ở tất cả các trường học…