Băn khoăn về quyền chuyển giới
Một trong những điểm mới trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (BLDS) lần này được các đại biểu đánh giá cao đó là về vấn đề cá nhân có quyền chuyển đổi giới tính (CĐGT). Mặc dù nhiều ý kiến của các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) không tán thành với quy định của Dự thảo về việc không công nhận quyền CĐGT nhưng người đã chuyển đổi giới tính được thay đổi hộ tịch và có các quyền nhân thân kèm theo giới tính mới được chuyển đổi.
Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về mục đích, nguyên nhân của việc chuyển giới cũng như trường hợp nào được chuyển giới để tránh lạm dụng. Ý kiến khác đề nghị chưa nên quy định “công nhận việc CĐGT” khi chưa có hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, việc CĐGT kéo theo nhiều vấn đề xã hội phát sinh, chẳng hạn như hành lang pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp y học để CĐGT, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến y tế, bảo hiểm, hôn nhân và gia đình, các chính sách an sinh xã hội...
Do đó, để bảo đảm tính thận trọng, hợp lý, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội tách việc chuyển đổi giới tính thành một điều luật riêng và chỉnh lý nội dung này theo hướng xác định: “Việc CĐGT được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã CĐGT có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Liên quan đến vấn đề họ, tên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhiều ý kiến không tán thành quy định: “Họ, tên và chữ đệm của một người không được vượt quá hai mươi lăm chữ cái” vì cho rằng quy định này hạn chế quyền con người, không phù hợp với quy định của Hiến pháp. Từ lý do này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bỏ quy định trên; một số trường hợp cá biệt đặt tên quá dài, ảnh hưởng đến công tác quản lý hộ tịch, không thuận tiện trong giao dịch sẽ được thuyết phục, vận động trong thực tiễn áp dụng.
Nâng thời hiệu chia thừa kế
Có hai luồng ý kiến khác nhau khi bàn về thời hiệu chia thừa kế. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời hiệu để những người có quyền thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Luồng ý kiến thứ hai đề nghị không quy định về thời hiệu chia thừa kế.
Đa số các thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với luồng ý kiến thứ nhất. Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Dự thảo đã nâng thời hiệu chia di sản thừa kế nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thừa kế hợp pháp, đồng thời cũng vẫn quy định một giới hạn thời gian nhất định để người thừa kế thực hiện quyền của mình, bảo đảm ổn định trật tự xã hội và phù hợp với tính chất của di sản thừa kế.
Cùng với đó, Dự thảo đã đưa ra các phương án ưu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu di sản thừa kế khi hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế, lần lượt là nguời thừa kế đang quản lý di sản; người đang chiếm hữu một cách ngay tình, liên tục, công khai hoặc nếu không có người chiếm hữu đủ các điều kiện này thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước.
Các quy định trên đã xử lý được các vướng mắc xảy ra trong thực tế khi pháp luật hiện hành đang bỏ ngỏ, không quy định việc xử lý quyền sở hữu đối với di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu chia thừa kế.
Cho ý kiến về Dự án Luật về Hội, UBTVQH cho rằng Luật về Hội cần phải làm rõ khái niệm và phạm vi điều chỉnh quy định, làm sao để đảm bảo tính cụ thể, minh bạch, tạo cơ sở pháp lý để công dân sau này nhìn vào đó biết được làm gì, không được làm gì trong các hoạt động có liên quan đến hội.
Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Việt Nam hiện bao gồm 3 loại hội: Thứ nhất là hội do Nhà nước lập ra, thứ hai là các hội được phép hoạt động, quản lý theo luật pháp Việt Nam và thứ ba là các tổ chức không thuộc 2 loại trên được tự do như Hiến pháp quy định. Luật phải quy định làm sao để khi ra đời sẽ tạo bầu không khí tốt, rằng sau khi có Hiến pháp 2013 thì quyền lập hội và quyền tham gia hội của công dân được bảo đảm.