Lúng túng trong xác định vật chứng của vụ án, một chiếc xe ô tô bị giữ, dầm mưa dãi nắng trong hai năm. Đây là một tình huống pháp luật có nhiều khía cạnh phải được xem xét để bảo đảm pháp luật được áp dụng thống nhất, khách quan.
Xe mua ngay thẳng bị thu giữ
Năm 2008, anh Nguyễn Tất Hải ký hợp đồng mua ô tô Chevlolet 7 chỗ ngồi, BKS 33M-3271 của vợ chồng anh Trần Văn Dũng với giá 390 triệu đồng. Hai bên đã giao tiền, nhận xe và giấy tờ, nhưng doanh Dũng mất CMTND nên bên bán hẹn khi làm xong CMTND sẽ làm công chứng theo quy định. Tháng 2/2009, anh Hải đang chạy xe trên đường thì bị công an thu giữ xe vì xác định đó là vật chứng của vụ án, liên quan đến hành vi lừa đảo xuất khẩu lao động của anh Dũng.
Theo cơ quan công an, năm 2007, Trần Văn Dũng mua chiếc này và khi đi đăng ký, thì Phòng Cảnh sát giao thông Công an TP Hà Nội đã làm nhầm đăng ký thành xe 5 chỗ ngồi. Dũng xin cấp lại đăng ký, đồng thời photo màu giữ lại một bản đăng ký xe 5 chỗ. Phòng Cảnh sát giao thông đã thu hồi đăng ký cấp nhầm và cấp cho Dũng đăng ký xe mới (7 chỗ).
Ít lâu sau, Dũng vay 350 triệu đồng của anh Đào Mạnh Hùng, để bảo đảm, hai bên lập hợp đồng mua bán chiếc xe ô tô Chevlolet 5 chỗ ngồi, căn cứ theo bản phô tô Đăng ký cấp sai mà Dũng còn giữ. Vì chỉ lập hợp đồng mua bán giả, nên anh Hùng không kiểm tra xe, xem xét Đăng ký nên đồng ý cho vay tiền, dẫn đến bị mắc lừa.
Trong thời gian đó Dũng có hành vi lừa đảo trong hoạt động xuất khẩu lao động, không có tiền trả nên anh Hùng trình báo công an, dẫn đến chiếc xe 7 chỗ của anh Hải bị bắt giữ. Hai năm qua, chiếc xe 7 chỗ của anh Hải bị coi là vật chứng của vụ án, đang dầm mưa dãi nắng ngoài trời khiến bị hư hại nặng, dù anh Hải làm nhiều đơn khiếu nại vẫn chưa được giải quyết.
Căn cứ pháp luật nào?
Việc thu giữ xe ô tô của anh Hải phản ánh vấn đề nhận thức và áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng vụ án Trần Văn Dũng chưa chính xác.
Thứ nhất, việc anh Hùng ký hợp đồng mua xe của anh Dũng có xác nhận của UBND phường, nhưng hợp đồng này cũng không có giá trị pháp lý vì tài sản có giá trị lớn phải được đồng sở hữu là vợ Dũng ký; hơn nữa tài sản mua bán (xe Chevlolet 5 chỗ ngồi) không tồn tại trên thực tế. Giấy bán xe chỉ che giấu việc thế chấp tài sản, vì vậy hợp đồng nêu trên là vô hiệu cả hình thức và nội dung. Bởi vậy, dựa vào hợp đồng vô hiệu này để thu giữ xe của anh Hải là thiếu căn cứ.
Thứ hai, Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Như vậy, vật chứng trong vụ án này là chiếc đăng ký giả (công cụ phạm tội) và xe ôtô Chevlolet 5 chỗ ngồi (nếu có thật), đối tượng của tội phạm là nhằm chiếm đoạt 350 triệu đồng, chứ không phải là chiếc xe 7 chỗ ngồi của anh Hải.
Thứ ba, việc mua bán xe Chevlolet 7 chỗ ngồi giữa vợ chồng Dũng và anh Hải cho thấy hai bên đã hoàn tất được 1 phần cơ bản là lập hợp đồng mua bán xe, bên mua đã giao tiền, bên bán đã giao xe và giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản. Tại cơ quan điều tra, vợ chồng Dũng đều thừa nhận là bán xe cho anh Hải.
Tuy hợp đồng chưa được công chứng theo quy định pháp luật, nhưng đây là việc mua bán ngay tình, sau khi nhận xe anh Hải đã trở thành người quản lý hợp pháp chiếc xe này (nếu hoàn tất việc sang tên thì anh Hải trở thành chủ sở hữu). Anh Hải không phải là người bị hại, chiếc xe Chevlolet 7 chỗ không liên quan đến vụ án.
Thứ tư, cách xử lý vật chứng của cơ quan tố tụng không hợp lý, dẫn đến thiệt hại cho công dân, có thể cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường. Khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cơ quan có thẩm quyền… có quyền quyết định trả lại những vật chứng … cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án”.
Trong vụ việc cụ thể này, người quản lý hợp pháp tài sản là anh Hải, chiếc xe Chevlolet 7 chỗ không còn là tài sản của Trần Văn Dũng, cũng không liên quan đến hợp đồng vô hiệu của anh Hùng, nếu trả lại xe ô tô cho anh Hải cũng không ảnh hường gì đến việc xử lý vụ án, nên việc giữ xe đến 2 năm không xử lý là điều không bình thường.
Lê Vĩnh