Thách thức SDD, thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi
Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc của Viện Dinh dưỡng năm 2014 - 2015 thì tỷ lệ SDD ở Việt Nam vẫn còn những vấn đề nhức nhối. Cụ thể đối với trẻ dưới 5 tuổi thì cứ sáu trẻ có một bị thiếu cân và cứ bốn thì có một trẻ thấp còi.
PGS.TS Lê Bạch Mai, Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia chia sẻ, kết quả điều tra cho thấy cả nước còn khoảng 2 triệu trẻ SDD và đã có 5 ngàn trẻ em tử vong do những nguyên nhân liên quan dinh dưỡng. Đặc biệt trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, hạn hán kéo dài, càng khiến nguồn lương thực thực phẩm khan hiếm dẫn đến tỷ lệ SDD gia tăng. Ở những vùng sinh thái khác nhau thì có tỷ lệ SDD khác nhau. Trong đó cao nhất ở các tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh vùng núi phía Bắc và miền Trung.
Bên cạnh đó, tình trạng thiếu máu ở trẻ em Việt Nam là một thách thức mới nổi. Điều tra của Viện Dinh dưỡng công bố có tới 27,8 % trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu máu. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu chất sắt. PGS Mai cảnh báo tình trạng thiếu máu ở trẻ có nguyên nhân lớn từ bà mẹ. Bởi có tới 1/3 phụ nữ mang thai bị thiếu máu. Tỷ lệ này theo bà Mai, “liên quan mật thiết” với số lượng trẻ thiếu máu sau khi sinh ra.
Xếp sau SDD và thiếu máu là tình trạng thiếu kẽm (có nhiều trong thủy hải sản) ở trẻ em. Số liệu do Viện Dinh dưỡng thực hiện điều tra trong hai năm cho thấy gần 70% trẻ em dưới 5 tuổi thiếu chất kẽm. Đặc biệt ở vùng núi tỉ lệ này lên tới 80%.
PGS Mai lí giải thiếu kẽm ở trẻ có nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, nguyên nhân ảnh hưởng từ mẹ rất lớn bởi gần 64% phụ nữ mang thai bị thiếu kẽm nên chuyện những đứa trẻ chào đời thiếu vi chất này không quá lạ lẫm. Bà Mai cảnh báo tình trạng SDD nói chung, thiếu máu và thiếu kẽm ở trẻ em đang là ba thách thức lớn của nước ta. Và một mình ngành y tế khó giải quyết triệt để những vấn đề này.
Giải pháp “vườn - ao - chuồng”
Có một nghịch lý rằng trước đây người ta thường quan niệm SDD do đói kém. Nhưng hiện trẻ vẫn SDD trong bối cảnh dư thừa lương thực, thực phẩm (LTTP). Đó là điều đáng lo ngại.
PGS.TS Lê Danh Tuyên, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia cho rằng thực tế trên cho thấy SDD không bị loại bỏ chỉ bằng cách đơn giản là tăng lượng lương thực toàn cầu, một quốc gia hay một khu vực. Bởi theo nhiều chuyên gia và kết quả khảo sát, việc tăng nguồn cung cấp LTTP không tự động tăng khả năng tiếp cận lương thực của các nhóm nghèo trong xã hội. Và Việt Nam về cơ bản đảm bảo an ninh LTTP cấp quốc gia, nhưng chưa đảm bảo cấp hộ gia đình và cá thể.
Theo ông Tuyên, so với những thập kỉ trước, tỷ lệ SDD ở Việt Nam đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, khi tỷ lệ này càng thấp thì tỉ lệ giảm cũng chậm theo. Chẳng hạn kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2010 cho thấy tỷ lệ SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân chiếm 17,5% và SDD thấp còi là 29,3%. Sau 5 năm, hai tỷ lệ trên lần lượt là 14,1% và 24,6%.
Bàn về những giải pháp, PGS Mai cho rằng cần huy động nguồn lực tổng hợp xã hội trong việc đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ em và bà mẹ. Từ đó mới hy vọng kéo giảm tình trạng SDD, thiếu máu, thiếu kẽm ở trẻ em xuống nữa. Một trong những giải pháp được cho hiệu quả đó là phát triển mô hình vườn - ao - chuồng (VAC) nhằm tạo ra nguồn lương thực thực phẩm dồi dào, sẵn có, giàu dinh dưỡng và an toàn để cải thiện bữa ăn gia đình.
“Thứ nhất, mô hình VAC giúp canh tác đa dạng cây trồng, vật nuôi nên cung cấp nguồn thực phẩm đa dạng, sẵn có quanh năm theo mùa vụ. Đồng thời khả năng tiếp cận thực phẩm của hộ gia đình, cá nhân cao hơn”, bà Mai phân tích.
Bà Mai dẫn chứng từ các cuộc điều tra tại Cẩm Bình (Hải Dương, 1996) và Định Hoá (Thái Nguyên, 2003) về vai trò của VAC với dinh dưỡng, cho thấy khẩu phần ăn của gia đình được cải thiện rõ ràng. Cụ thể như sau: Cá tăng 2,7 lần, thịt các loại tăng 2 lần, trứng (gà, vịt) tăng 2,5 lần; trái cây tăng 2,1 lần. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của nhóm trẻ 5-6 tuổi của nhóm hộ gia đình có VAC thấp hơn nhóm không canh tác VAC là 1,4 lần.
Giải pháp nữa là tuân thủ quy tắc “1000 ngày vàng” trong quá trình mang thai và sinh nở. 1000 ngày vàng tức là thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý trong 1000 ngày tính từ giai đoạn mẹ mang thai đến 2 năm đầu đời của trẻ. Đây là giai đoạn lập trình điều tiết tăng trưởng và phát triển não bộ.
Vậy có thể can thiệp như thế nào trong thời gian 1000 ngày vàng? PGS Mai giải đáp câu hỏi trên như sau:
Thứ nhất, trong 280 ngày mang thai, em bé hoàn toàn phụ thuộc vào dinh dưỡng mẹ hấp thụ. Giai đoạn này cần cải thiện dinh dưỡng cho mẹ gồm bổ sung sắt, axit folic tức đa vi chất, muối I - ốt. Đồng thời giảm ô nhiễm trong nhà, tránh tiếp xúc khói thuốc lá, chú ý tẩy giun, dự phòng sốt rét.
Thứ hai, từ khi trẻ sơ sinh đến 6 tháng tuổi, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho bé. Ở giai đoạn sơ sinh nên cho trẻ bú sớm và bú sữa mẹ hoàn toàn. Lưu ý bổ sung vitamin A cho bà mẹ đang mang thai. Trong 6 tháng đầu, vẫn cho trẻ bú hoàn toàn bằng sữa mẹ.
Thứ ba, khi bé từ 6 - 24 tháng tuổi: Tiếp tục nuôi con bằng sữa mẹ, bổ sung chế độ ăn, bổ sung các chất kẽm, vitamin A, bột đa vi chất, tẩy giun.
Cùng quan điểm trên, Viện trưởng Tuyên nhấn mạnh sữa mẹ là tốt nhất trong 6 tháng đầu, không gì thay thế được. Ông khuyến cáo hiện nay nhiều phụ nữ lo giữ vóc dáng mà hạn chế ăn uống dẫn đến tình trạng thiếu nữa cho trẻ nhỏ là không nên: “Trường hợp sản phụ không có sữa thì nên đi xin sữa của những bà mẹ sinh con cùng thời điểm. Trường hợp bất đắc dĩ mới phải nuôi con bằng thức ăn bổ sung và nên tham vấn ý kiến của bác sĩ chuyên khoa”, ông Tuyên nói.