Đáp ứng đòi hỏi bức thiết của cuộc sống
Theo Ban soạn thảo xây dựng Luật tư pháp người chưa thành niên (NCTN), Việt Nam đã có nhiều bộ luật, luật, văn bản dưới luật điều chỉnh về tư pháp hình sự đối với NCTN. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: Hệ thống hình phạt hiện hành còn một số sai sót, không thực hiện được trong thực tế; một số quy định chưa phù hợp với độ tuổi, đặc điểm, tính chất hành vi phạm tội của NCTN; một số hình phạt không có sự phân hóa giữa NCTN và người trưởng thành; mức hình phạt tù tối đa áp dụng với NCTN vẫn còn rất nghiêm khắc; điều kiện NCTN được tha tù trước hạn vẫn còn chặt chẽ;
Các biện pháp giám sát, giáo dục đã được quy định nhưng hầu như không được áp dụng, thiếu tính khả thi và còn nhiều bất cập; các biện pháp xử lý chuyển hướng còn ít và mang tính hình thức, thiếu cơ chế phục hồi cho NCTN; thủ tục tố tụng hình sự chưa thực sự thân thiện, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, khả năng nhận thức và sự phát triển của NCTN; một số quy định chưa bảo đảm được lợi ích tốt nhất cho NCTN; thiếu thiết chế bảo vệ NCTN là bị hại, người làm chứng;
Hệ thống pháp luật hiện hành chưa thiết lập được cơ chế điều phối quốc gia để giải quyết hiệu quả các vấn đề về tư pháp NCTN; chưa quy định vị trí, vai trò, trách nhiệm của người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp NCTN; quy định về thi hành án, tái hòa nhập cộng đồng đối với NCTN còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp, hiệu quả chưa cao. Có khả năng tạo ra sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với NCTN…
Ngoài hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự có NCTN tham gia cho thấy thủ tục giải quyết còn rườm rà, thời gian giải quyết còn dài; quan điểm xử lý NCTN phạm tội vẫn còn nặng về răn đe, áp dụng hình phạt mà chưa xác định việc trừng phạt chỉ nên được sử dụng như là biện pháp cuối cùng; chưa chú trọng tạo cơ hội cho NCTN phạm tội sửa chữa, cải thiện hành vi; hoạt động tư pháp NCTN được phân công cho nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không có cơ quan chủ trì điều phối, vì vậy, phối hợp liên ngành còn thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả; nguồn lực đầu tư cho việc chăm sóc, bảo vệ NCTN trong hoạt động tố tụng còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu;... “Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng tỷ lệ người chưa thành niên vi phạm, tái phạm vẫn còn cao và có xu hướng gia tăng”, theo Ban soạn thảo..
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng, các văn kiện này đều khuyến nghị đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tư pháp người chưa thành niên. Tuy vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có Luật Tư pháp người chưa thành niên. Trong khi đó, nhiều quốc gia trên thế giới đều đã có đạo luật này. Riêng ở khu vực ASEAN hiện đã có 9/10 quốc gia có Luật Tư pháp NCTN. Vì vậy, năm 2022 Ủy ban quyền trẻ em Liên hợp quốc đã khuyến nghị Việt Nam “xây dựng và thông qua một đạo luật toàn diện về tư pháp trẻ em, cung cấp khuôn khổ pháp lý cho hệ thống tư pháp trẻ em”.
Từ những phân tích nêu trên, theo Ban soạn thảo, việc xây dựng và ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên là khách quan và cần thiết.
Bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương trong hoạt động tư pháp hình sự
Đáng chú ý, theo Ban soạn thảo, tư pháp hình sự đối với NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tình cảm, nhận thức; thiếu kiến thức xã hội, pháp luật; hành động cảm tính, bốc đồng, manh động; khó kiểm soát cảm xúc; hạn chế trong việc phòng, tránh rủi ro và các hành vi nguy hiểm. Đây là nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội nên cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, nhất là trong hoạt động tư pháp hình sự. Vì vậy, chính sách về tư pháp hình sự đối với NCTN cần có tiếp cận chuyên biệt, toàn diện, phù hợp với lứa tuổi, khả năng nhận thức của các em và hướng tới mục đích chính là giáo dục, cải tạo, giúp đỡ NCTN tự sửa chữa sai lầm, cải thiện nhận thức và hành vi, trở thành công dân tốt cho xã hội.
Thẩm tra dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban Tư pháp (UBTP) của Quốc hội tán thành sự cần thiết ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của TANDTC.
Theo UBTP, việc ban hành Luật bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới và hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đối với NCTN; bảo đảm và bảo vệ tốt nhất lợi ích của NCTN. Dự thảo Luật khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, chỉ điều chỉnh một số chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN trên nền của các quy định vốn được dành cho người trưởng thành, mà thiếu cách tiếp cận có tính chuyên biệt, hệ thống và toàn diện.
Đồng thời, Tờ trình xác định quan điểm cùng với việc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho NCTN thì phải bảo đảm sự an toàn của cộng đồng, bảo vệ và hỗ trợ cho nạn nhân trong quá trình tố tụng là phù hợp. “Việc ban hành một đạo luật chuyên biệt về tư pháp đối với NCTN thể hiện Việt Nam đáp ứng và thực thi tích cực, nghiêm túc yêu cầu của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, các khuyến nghị của Ủy ban Quyền trẻ em Liên hợp quốc.”, theo UBTP.
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Hoà Bình- đồng thời là Trưởng ban soạn thảo, sẽ trình bày tờ trình Dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên. Dự thảo Luật gồm 173 điều được bố cục thành 05 phần, 11 chương.
Theo Ban soạn thảo, việc xây dựng Luật Tư pháp NCTN là thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp; giáo dục, bảo vệ NCTN; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; Bảo đảm trật tự an toàn xã hội và bảo vệ nạn nhân khi giải quyết vụ việc có NCTN. Xử lý nghiêm hành vi vi phạm nhưng vẫn nhân văn, tạo cơ hội sửa chữa lỗi lầm đối với NCTN phạm tội; Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho NCTN; việc xử lý NCTN phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức, đặc điểm nhân thân, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; áp dụng hình phạt với NCTN phạm tội chỉ được xem là giải pháp cuối cùng; áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện trong suốt quá trình giải quyết vụ việc; Nội luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.