Giọt lệ sen

(PLVN) - Không ai nhớ rõ ông Năm Nhẫn bắt đầu xuất hiện ở làng Đông từ lúc nào. Chỉ biết một ngày cuối đông, trời rét cắt da, có người thấy ông ngồi trầm ngâm ở quán nước đầu đình, tay cầm điếu cày sứt mẻ, mắt dõi về phía núi. Mắt ấy không phải của kẻ lạ đường, cũng không hẳn là mắt của người quê - mà là thứ ánh nhìn từng đi qua nhiều kiếp, từng chứng kiến nhiều điều, từng bị đuổi theo bởi những hình thù không ai thấy.

Ông không kể chuyện đời mình. Người làng bảo ông tên Năm Nhẫn là vì tính trầm lặng, ai hỏi gì cũng chỉ “ừ”, “à”, rồi thôi. Lũ trẻ con sợ ông, nhưng không hiểu vì sao. Chúng chỉ biết mỗi lần đi ngang qua căn chòi nhỏ của ông bên rìa rừng, chúng nghe như có tiếng đục đẽo vọng ra từ lòng đất.

Ông sống một mình, không thân thích. Căn chòi cũ kỹ, mái rơm vá chằng vá đụp. Ban ngày, ông đi loanh quanh làng, tay cầm gậy trúc, dáng gù gù như muốn né tránh ánh nhìn người đời. Ban đêm, từ rừng vọng ra ánh đèn dầu lập lòe, tiếng gõ, tiếng đục, tiếng rì rầm khó hiểu như tụng kinh. Có lần người dân thấy ông ngồi im bên suối, tay thọc vào nước lạnh, miệng lẩm nhẩm: “Mắt này không phải mắt Phật… môi kia là của người oán…”.

Dần dà, người ta quen với sự có mặt của ông. Quen như quen tiếng cú kêu lúc nửa đêm, quen gió hú qua khe cửa, quen một thứ tồn tại kỳ dị song song với đời sống bình thường.

Nửa năm sau, làng bắt đầu xôn xao. Có tin đồn ông Năm là nghệ nhân tạc tượng. Không phải loại tượng gỗ rẻ tiền bán ở chợ phiên, mà là tượng đá, tượng cổ, tượng “có thần”. Những người lạ mặt từ Hà Nội, Hải Phòng, thậm chí tận Sài Gòn tìm về làng Đông, mang theo các pho tượng cũ sứt mẻ, lặng lẽ trao cho ông. Không ai biết họ là ai, chỉ biết họ rời đi nhẹ tênh - như vừa trút được gánh nặng.

Một thời gian sau, có những pho tượng mới xuất hiện trong các biệt phủ giàu sang. Tượng Mẫu. Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải. Pho nào cũng giống như vừa bước ra từ giấc mộng linh thiêng - áo lụa phấp phới, thần sắc cuốn hút, ánh mắt như xoáy vào tâm can. Có người khấn xong thấy nước mắt trào ra, có người về nhà mộng thấy Mẫu dắt tay đi qua rừng đào trắng.

Không ai truy nguyên tượng từ đâu đến. Nhưng trong giới chơi đồ cổ, một cái tên bắt đầu rộ lên như một mật ngữ: “Năm Nhẫn - tạc tượng có thần”.

Tranh minh họa. (Nguồn: Họa sĩ Nam Chi)

Một ngày đầu hạ, có người mang đến cho ông một pho tượng đá phủ rêu xanh, nặng đến bốn người khiêng mới nổi. Đó là một tượng Phật cổ, dáng ngồi kiết già, khuôn mặt bị thời gian làm nứt nẻ. Người mang tượng đến không nói tên, chỉ để lại phong bì dày và câu thì thầm: - Tôi có tượng này… đổi lấy một pho Mẫu. Thiếu tôi trả thêm tiền, không thành vấn đề. Chỉ cần có hồn, có vía, nhìn vào là thấy được phù hộ.

Ông Năm đứng nhìn pho tượng thật lâu. Không gật, không lắc. Ông chỉ chạm tay lên trán tượng, khẽ vuốt một đường qua mắt, qua miệng, rồi nói nhỏ:

- Một tháng sau quay lại.

Trong một tháng ấy, ánh đèn dầu trong chòi ông không hề tắt. Ban đêm, ánh sáng hắt lên mái lá, rọi thành hình những chiếc bóng không rõ hình người. Tiếng đục gõ vang vọng khắp triền đồi. Có người bảo nghe như tiếng trẻ con khóc. Người khác lại nghe tiếng niệm kinh… ngược.

Một tháng sau, người kia quay lại. Ông Năm trao cho hắn một pho tượng Mẫu Liễu Hạnh. Tượng bằng đá, nước đục lạ thường, thân thể oai nghiêm mà không mất dịu dàng. Gương mặt như đang che giấu điều gì. Mắt không mở to, nhưng nhìn vào lại thấy mình nhỏ lại - trần trụi.

Người kia mang tượng về đặt giữa gian thờ tầng năm biệt phủ.

Ba ngày sau, vợ hắn nhảy lầu tự tử. Một tuần sau, hai đứa con phát cuồng. Đêm thứ mười, hắn cởi trần chạy giữa phố, gào thét: “Tha cho tôi! Tha cho tôi! Tôi đã dâng trả rồi!”.

Khi công an ập đến, không còn tượng Mẫu nào trong phòng. Chỉ còn một pho tượng Phật cổ, ngồi kiết già, nhưng… méo mó. Mắt là mắt người, miệng là từ tượng Thánh, tai dài như của Phật Di Lặc, mà tay lại cầm quạt của Chầu Đệ Tứ.

Họ tá hỏa nhận ra: chính pho tượng Phật mà hắn từng mang cho ông Năm đổi đã quay trở lại, nhưng nay đã bị “xẻ thịt”, ghép nối từ những mảnh tượng cổ khác. Như thể có ai đó đã cắt rời từng phần linh thiêng, vá vào nhau một thứ mới - trộn lẫn thần Phật, Mẫu, Thánh, Tà.

Công an tìm đến căn chòi của ông Năm. Bên trong, họ phát hiện hàng chục bộ phận tượng rời: đầu, tay, chân, mắt, miệng - đủ mọi kích cỡ, niên đại, văn hóa. Một phần trong đó khớp với những tượng bị mất cắp từ chùa Quan Âm, đền Linh Sơn, phủ Thiên Đức,…

Khi bị tra hỏi, ông Năm chỉ nói: - Người ta không còn cần Phật nữa… Phật từ bi quá, không đáp ứng được lòng tham. Họ cần Mẫu - mạnh mẽ, oai linh, linh ứng tức thời. Nhưng lòng tin họ rỗng. Họ chỉ muốn cầu mà không muốn giữ đạo. Tôi chỉ… làm điều họ muốn.

Rồi ông lẩm bẩm như tự nói với mình:

- Tượng chỉ là xác. Người thờ mới là hồn. Tôi có đổi đầu tượng, tay tượng… cũng chỉ là như con người đổi mặt. Có khác gì đâu?

Không ai đáp lại.

Ông bị tuyên án tù vì tội trộm cắp và buôn bán cổ vật bất hợp pháp. Không kháng án. Không chối tội. Sau khi ra tù, người làng bảo ông về lại căn chòi cũ, nhưng rồi chẳng ai thấy ông nữa. Chỉ thỉnh thoảng, ở một làng nào đó, người ta lại kháo nhau về một pho tượng Mẫu kỳ lạ - mới mà cũ, ánh mắt như đã nhìn thấu cả kiếp người… Căn chòi bên rừng im lìm, cửa khóa bằng sợi dây thừng mốc meo. Trẻ con trèo vào, la hét bỏ chạy. Chúng nói bên trong là những pho tượng dở dang: đầu Phật, thân Mẫu, có cái lại nửa Shiva nửa Quan Âm, miệng hé như muốn nói, mắt lồi như sắp khóc.

Người làng đồn nhau: ông Năm bị Mẫu bắt đi rồi. Có kẻ lại bảo: ông chỉ là kẻ thợ, người thật sự thao túng là một đường dây ngầm, chuyên “tân tạo cổ tượng”, mỗi tháng xuất đi hàng chục tượng “Mẫu lai Phật”. Người thờ thì xin tài, kẻ bán thì cầu lộc, chỉ linh hồn là bị đánh đổi.

Mãi đến ba năm sau, vào tháng Giêng, làng Đông mở hội đền Mẫu. Lúc đoàn rước kiệu trống rong cờ mở, một chiếc xe khách cũ kỹ bất ngờ dừng trước cổng đình. Từ xe bước xuống một người lưng gù, đầu đội mũ nan, hai tay ôm chặt một vật bọc vải đỏ.

Người ấy bước đi chậm rãi giữa dòng người, không ai nhận ra là ai. Nhưng khi ông đi qua, gió ngừng thổi, chó ngừng sủa, tiếng trống cũng lạc nhịp. Ông đặt pho tượng giữa sân đình, từ tốn mở lớp vải đỏ.

Dưới ánh mặt trời là một pho tượng đá ngồi kiết già. Mắt nhắm hờ, môi cười độ lượng. Lạ thay, khuôn mặt không phải của Phật, cũng chẳng là Mẫu. Mà là sự hòa quyện của cả hai. Sự tĩnh lặng của Phật và oai nghiêm của Mẫu cùng tụ hội nơi gương mặt đó.

Một cụ cao niên run run tiến lên, nước mắt lưng tròng:

- Đây… là tượng Phật cổ của chùa Đông ta… đã bị mất trộm mười năm trước!

Người đàn ông lưng gù cúi đầu, giọng khản đặc như khói:

- Tôi mang tượng về trả. Bao năm qua, tôi cứ tưởng mình tạo tác. Hóa ra tôi chỉ đang bóc tách thần linh… từng lớp… từng lớp… cho đến khi chỉ còn lại oán khí. Tượng nào cũng giữ lại phần bóng tối tôi không nhìn thấy. Đến khi chạm vào tượng Phật thật, tôi mới hiểu… chính tay mình đã cắt lìa linh hồn khỏi xác.

Một người hỏi:

- Vậy đây là tượng Phật… hay tượng Mẫu?

Ông Năm ngước lên, ánh mắt như đã qua nhiều kiếp:

- Là tượng Bi. Là nơi Phật và Mẫu cùng ngự. Là lời tha thứ cuối cùng.

Nói rồi, ông lẫn vào dòng người, không ai thấy ông nữa.

Vài tháng sau, pho tượng ấy được rước vào đền Mẫu làng Đông. Người đến khấn đều cảm thấy tâm mình nhẹ hẳn, như vừa bỏ được một gánh nặng cũ kỹ mà không biết mình mang theo từ bao giờ.

Có người đinh ninh nhìn thấy Mẫu và Phật ngồi bên nhau, chải tóc, cười hiền. Rồi cả hai cùng nhỏ một giọt lệ xuống đất. Nơi giọt lệ rơi, mọc lên một đóa sen - nở muộn nhưng thơm lạ thường.