Thể chế trong Kỷ nguyên mới

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về doanh nghiệp dân tộc tại Việt Nam

(PLVN) - Kỳ 2: Doanh nghiệp dân tộc và những rào cản pháp lý cần tháo gỡ
Một dây chuyền sản xuất ô tô của Tập đoàn Trường Hải. (Ảnh: Thacoauto.vn)
Một dây chuyền sản xuất ô tô của Tập đoàn Trường Hải. (Ảnh: Thacoauto.vn)

Doanh nghiệp dân tộc (DNDT) là nền tảng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn đại diện cho bản sắc văn hóa và niềm tự hào dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số mạnh mẽ, việc hoàn thiện các chính sách pháp luật để hỗ trợ DNDT phát triển không chỉ mang tính cấp thiết mà còn là yếu tố quyết định để hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cần nhận diện rõ khái niệm “Doanh nghiệp dân tộc”

Nghị quyết 41-NQ/TW nêu rõ yêu cầu “có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu”.

Tuy nhiên, thế nào là doanh nghiệp dân tộc hiện cũng còn nhiều cách hiểu khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng, doanh nghiệp dân tộc phải là những tập đoàn lớn của Nhà nước như: Vietnam Airlines, Dầu khí Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Bưu chính viễn thông, Xăng dầu Việt Nam, Mobifone, Vinachem…

Ý kiến khác lại cho rằng, doanh nghiệp dân tộc không nhất thiết chỉ là doanh nghiệp nhà nước, mà bao gồm doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế, có thể là các tập đoàn tư nhân như Vingroup, Sungroup, Hòa Phát, Sunhouse, Tân Á Đại Thành….miễn là những doanh nghiệp này là những tên tuổi lớn mạnh, tầm cỡ quốc gia, quốc tế.

Một số ý kiến lại đề nghị xác định doanh nghiệp dân tộc là các Tập đoàn kinh tế tư nhân, đứng sau đó là các đại gia tộc hùng mạnh, như kinh nghiệm một số quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản…đã xây dựng thành công.

Do còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” nên những tiêu chí để đánh giá một doanh nghiệp dân tộc cũng còn chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp dân tộc có thể là doanh nghiệp vừa, hoặc doanh nghiệp lớn, kinh doanh các sản phẩm nội địa. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp vừa thành lớn, lớn thành hùng mạnh.

Ý kiến khác lại cho rằng, tiêu chí để đánh giá một doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn doanh nghiệp dân tộc là quy mô vốn và thị trường. Những doanh nghiệp này phải là các doanh nghiệp “sếu đầu đàn”, đã có sẵn tiềm lực, sẵn sàng vươn tầm quốc tế và Chính phủ cần có các chính sách đột phá, vượt trội để các doanh nghiệp này đạt đến mức độ “quy tụ”, trở thành trụ cột kinh tế quốc gia.

Về cơ chế, chính sách, hiện cũng chưa có các văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể các chính sách ưu đãi về thuế, nguồn vốn, thị trường cho các doanh nghiệp được gọi là “doanh nghiệp dân tộc”. Điều này dẫn đến việc thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể để thúc đẩy và bảo vệ DNDT khi các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc cần nguồn lực lớn để vươn tầm quốc tế.

Ông Nguyễn Thanh Tú, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp nhận định, “Để hiện thực hóa kỷ nguyên mới, Nhà nước không thể làm một mình”. Do đó, ông Nguyễn Thanh Tú cho rằng, trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta cần làm rõ Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp như thế nào để doanh nghiệp thực hiện được sứ mệnh của mình cũng như cần xác định vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới. Bởi để hiện thực hóa kỷ nguyên mới, Nhà nước không thể làm một mình mà phải có sự chung sức, chung lòng của doanh nghiệp, người dân, trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng.

Ông Nguyễn Thanh Tú, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp

Ông Nguyễn Thanh Tú, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp

Nhưng muốn doanh nghiệp đóng góp, theo ông Nguyễn Thanh Tú, phải nhìn từ hai góc độ. Ở góc độ thứ nhất, Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp sao cho thực chất, hiệu quả, đặc biệt trong vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật. Gần đây, Tổng Bí thư và Quốc hội (Nghị quyết số 158/2024/QH15) đã khẳng định phải đổi mới tư duy xây dựng pháp luật và phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật; trong đó, tập trung cắt giảm tối đa chi phí cho người dân, doanh nghiệp; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, xóa bỏ cơ chế xin - cho. Tất cả những nội dung này phải được hiện thực hóa và phải được tổ chức thực hiện hiệu quả, chất lượng trên thực tế, bảo đảm doanh nghiệp tận dụng được mọi nguồn lực hợp pháp để phát triển.

Ở góc độ thứ hai, doanh nghiệp cần làm gì để đóng góp trong kỷ nguyên mới? Điều này đòi hỏi trách nhiệm của doanh nghiệp trong xây dựng, phát triển đất nước. Trước hết, doanh nghiệp cần kinh doanh có trách nhiệm. Hai “vế” Nhà nước - doanh nghiệp phải song hành, không thể xem nặng hay xem nhẹ vế nào mà phải kết hợp cả hai, đặc biệt phải gắn với tổ chức thực hiện pháp luật hiệu lực, hiệu quả.

Khẩn trương xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp dân tộc

Để có thể hình thành và phát triển đội ngũ doanh nghiệp dân tộc như tình thần Nghị quyết 41, việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ DNDT một cách toàn diện và hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Các giải pháp cần được thiết kế nhằm tháo gỡ những rào cản hiện tại, tạo điều kiện thuận lợi để DNDT phát triển và hội nhập quốc tế.

Trước hết, cần xây dựng và có định nghĩa rõ ràng về DNDT trong các văn bản quy phạm pháp luật. DNDT nên được xác định không chỉ qua yếu tố sở hữu vốn mà còn phải dựa trên đóng góp cho nền kinh tế quốc gia, sự gắn bó với văn hóa dân tộc và khả năng hội nhập quốc tế. Sự thống nhất này sẽ là cơ sở để triển khai các chính sách hỗ trợ đặc thù.

Tiếp theo, cần thiết lập các cơ chế ưu đãi tài chính dành riêng cho DNDT, bao gồm các quỹ hỗ trợ đầu tư, ưu đãi tín dụng và giảm thuế cho các doanh nghiệp có sản phẩm mang giá trị văn hóa dân tộc hoặc thuộc lĩnh vực trọng yếu. Ngoài ra, chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa mở rộng quy mô cũng cần được thực hiện, tạo điều kiện cho họ trở thành các DNDT quy mô lớn dẫn dắt thị trường.

Các chính sách pháp luật cần hướng tới việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong DNDT. Nhà nước nên hỗ trợ các doanh nghiệp này tiếp cận các công nghệ tiên tiến, triển khai chuyển đổi số và phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, các DNDT cần được bảo vệ và hỗ trợ trong các tranh chấp thương mại quốc tế, đảm bảo lợi ích kinh tế và chủ quyền quốc gia.

Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho DNDT là vô cùng quan trọng. Chính phủ cần triển khai các chương trình quảng bá và bảo hộ các sản phẩm mang bản sắc Việt Nam trên thị trường quốc tế, đồng thời hỗ trợ DNDT tham gia vào các triển lãm thương mại toàn cầu.

Ông Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương cho rằng, để hình thành, phát triển DNDT, DN quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, Chính phủ cần xây dựng một khung pháp lý ổn định, trong đó có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích đội ngũ doanh nhân, cộng đồng DN Việt phát triển, đặc biệt là trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, được xem là yếu tố quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam. Các chính sách, chiến lược cẩn có tính ổn định, đồng bộ, thống nhất, minh bạch. Khuyến khích xã hội hóa, phương thức đối tác công - tư; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế đối thoại, tham vấn của các cơ quan dân cử, cơ quan quản lý nhà nước với đội ngũ doanh nhân trong quá trình xây dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, Nhật Bản đã thành công với mô hình keiretsu, Hàn Quốc thành công với các chaebol, nhiều chuyên gia cũng cho rằng Việt Nam có thể học hỏi từ các mô hình này để xây dựng các DNDT đầu đàn, làm hạt nhân, kết nối các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Do đó, việc tháo gỡ các rào cản pháp lý, hoàn thiện chính sách pháp luật để hỗ trợ DNDT không chỉ tạo động lực phát triển kinh tế mà còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Để làm được điều này, cần sự chung tay từ cả phía Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Chỉ khi có những chính sách đồng bộ, hiệu quả, DNDT mới thực sự trở thành lực lượng nòng cốt đưa nền kinh tế Việt Nam vươn xa trên bản đồ kinh tế toàn cầu.

Hồng Thúy- Thu Hằng – Mỵ Châu- Quỳnh Chi

(Còn tiếp)

Đọc thêm