Các giá trị di sản được phát huy
Công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Các sản phẩm, dịch vụ của ngành công nghiệp văn hóa đã góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới. Các ngành công nghiệp văn hoá có tỷ lệ giá trị gia tăng cao hơn so với chi phí sản xuất, góp phần tiết kiệm tài nguyên, phát huy và kết hợp được các yếu tố tự nhiên, văn hóa, bản sắc dân tộc và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đánh giá: “Nhìn lại chặng đường 7 năm triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam (Chiến lược 1755), với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đã đạt được một số kết quả nổi bật: Năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 2,68% GDP. Sau 3 năm 2016, 2017, 2018 triển khai Chiến lược 1755: năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3,61% GDP. Trong giai đoạn từ năm 2018 - 2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đóng góp ước đạt 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD).
|
Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam (ảnh Nhật Bắc) |
Trong 5 năm qua, bình quân tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm. Chỉ tính riêng năm 2022, thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến ngành công nghiệp văn hóa và bình quân lực lượng lao động thu hút khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người, tăng 7,44%/năm.
So sánh số liệu thống kê sau 07 năm của chúng ta với tình hình chung trên thế giới, có thể thấy, Việt Nam đang là quốc gia tầm trung về phát triển công nghiệp văn hoá và còn nhiều dư địa phát triển”.
Những năm qua, thực hiện các quy định của pháp luật về di sản văn hóa, các Bộ, ngành, địa phương đã tiến hành xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện các quy hoạch, dự án, đề án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Các di tích, danh lam thắng cảnh được quan tâm tu bổ, tôn tạo đã trở thành địa chỉ đỏ trong việc thu hút ngày càng đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế tới tham quan, nghiên cứu. Năm 2019, riêng 08 Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới ở Việt Nam đã đón hơn 21 triệu khách du lịch (trong đó có hơn 10 triệu khách quốc tế), với doanh thu từ vé tham quan và phí dịch vụ trực tiếp khoảng 3.123 tỷ đồng.
|
Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng phát biểu tại Hội nghị (ảnh Nhật Bắc). |
Ngoài ra, có thể nhận thấy sự phát triển du lịch tại các di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh giới không chỉ tạo điều kiện để các hoạt động dịch vụ du lịch như: khu vui chơi giải trí, cáp treo, nhà hàng, khách sạn, xe điện, xích lô, ca nhạc, nhiếp ảnh, hướng dẫn du lịch... phát triển, mà còn góp phần thúc đẩy các ngành giao thông (đường bộ, đường thủy, hàng không) hoạt động mạnh mẽ hơn. Sự gia tăng đáng kể cả về lượt khách thăm và các hoạt động du lịch, dịch vụ tại các điểm di sản tiêu biểu đã hàm chứa trong đó nhiều thực tiễn điển hình của quá trình giảm nghèo, thông qua việc giải quyết công ăn, việc làm cho hàng vạn lao động, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư địa phương tại nơi có di sản.
Để phát huy giá trị di sản góp phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, theo đại diện Cục Di sản, các cơ quan chức năng cần tập trung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực bảo vệ và quản lý di sản văn hóa (xây dựng Luật di sản văn hóa, sửa đổi, Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa, các Thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nhằm tạo động lực cho sự phát triển, đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Bộ với chính quyền địa phương; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đẩy mạnh việc quảng bá di sản văn hóa; nghiên cứu gắn kết di sản văn hóa với phát triển du lịch và kết nối vùng, thu hút ngày càng nhiều du khách tới tham quan di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh nói riêng, để các di sản văn hóa thực sự trở thành điểm đến quan trọng, góp phần phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của các địa phương, qua đó góp phần nâng cao đời sống cộng đồng địa phương.
Cần bảo vệ quyền lợi của nghệ sỹ và những người sáng tác
Ts. Nguyễn Phương Hòa - Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế đưa ra ý kiến, để tăng cường sức mạnh mềm, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư tăng cường sự hiện diện của tại các sự kiện VHNT uy tín trong khu vực và quốc tế, chủ động đăng cai một số sự kiện quy mô quốc tế để vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, và giới thiệu, ra mắt các sản phẩm văn hóa chất lượng cao của Việt Nam, từng bước xây dựng các sản phẩm thương hiệu quốc gia hướng tới xuất khẩu.
Các địa phương cần chú ý xây dựng các thương hiệu riêng như Hà Nội - thành phố sáng tạo với các Liên hoan thiết kế sáng tạo, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội, Liên hoan Âm nhạc Gió mùa…, Huế - thành phố festival với Festival Huế, Festival làng nghề truyền thống, Đà Lạt Lễ hội hoa, các chương trình âm nhạc uy tín… Để quảng bá hình ảnh quốc gia, Nhà nước cần đầu tư để Việt Nam tham gia định kỳ, bài bản, có quy mô tại các kỳ World Expo, Venice Biennale về nghệ thuật, Milan Triennale về kiến trúc, các không gian quảng bá quốc gia tại các kỳ Liên hoan phim quốc tế Cannes, Berlin,…
Ts. Nguyễn Phương Hòa cũng đưa ra kiến nghị, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện đồng bộ thể chế, gắn kết chính sách công nghiệp văn hóa sáng tạo trong tổng thể chính sách phát triển KTXH quốc gia: Đổi mới tư duy quản lý Nhà nước sang “kiến tạo”, “phục vụ phát triển”, trở thành kim chỉ nam cho việc xây dựng thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách. Trong lĩnh vực văn hóa, một lĩnh vực được xem còn thiếu nhiều bộ luật, việc xây dựng các bộ luật mới và sửa đổi các luật hiện hành cần dựa trên tư duy thúc đẩy tự do sáng tạo, bảo vệ quyền của nghệ sỹ, người sáng tạo, hỗ trợ lĩnh vực VHNT và các ngành CNVHST phát triển. Đặc biệt, cần xây dựng một cơ chế thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ và bảo vệ bản quyền tác giả, nhất là trong môi trường số. Luật pháp và các chính sách về bản quyền phải bảo vệ quyền lợi của nghệ sỹ và những người sáng tác, nhưng đồng thời phải đảm bảo sự cân bằng về việc công chúng được tiếp cận với các tác phẩm sáng tạo.
Tại Hội nghị, bên cạnh bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa trong những năm qua, các đại biểu cũng đánh giá thực trạng phát triển của từng lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hóa gồm điện ảnh; du lịch văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; quảng cáo; kiến trúc; thiết kế; xuất bản; thời trang; truyền hình và phát thanh; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ.
Trên cơ sở kết quả Hội nghị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ có chỉ đạo, định hướng phát triển có trọng tâm, trọng điểm các ngành công nghiệp văn hóa, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố có các giải pháp và cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Việt Nam.
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được tổ chức hôm nay là Hội nghị đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Nói về công nghiệp văn hóa là đề cập đến các ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo, có bản chất vật thể hoặc phi vật thể; thông qua khai thác những giá trị văn hóa cùng những sản phẩm và dịch vụ có tính trí tuệ, có ý nghĩa xã hội và văn hoá để thu về những nguồn lợi kinh tế. Trên thế giới, phát triển công nghiệp văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, là xu thế và dần trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển công nghiệp văn hoá.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để phát triển văn hóa và công nghiệp văn hóa:
- Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Trung ương xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội…”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 đề ra mục tiêu, yêu cầu: “Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam”; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Chính phủ ban hành đã khẳng định quan điểm: “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”. Chiến lược xác định 12 lĩnh vực của Công nghiệp văn hóa; đồng thời đề ra mục tiêu triển khai các lĩnh vực này đến năm 2030; Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam”; Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu 6 nhiệm vụ lớn, trong đó: “khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng
Thủ tướng nhận định: Với sự đặc biệt quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương, thời gian qua các ngành công nghiệp văn hóa dần trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng; sự đầu tư nguồn vốn vào các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa có những bước tiến mới, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, so với một số ngành khác thì các ngành công nghiệp văn hóa nước ta vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng, lợi thế. Thủ tướng nêu rõ, để công nghiệp văn hóa nước ta sớm phát triển nhanh, bền vững, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm, xây dựng ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam “Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp - Cạnh tranh”, trên nền tảng văn hóa “Dân tộc - Khoa học - Đại chúng” của Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943.