Vì vậy, dự thảo Luật BV&PTR (sửa đổi) được thảo luận từ kỳ họp thứ 3 và dự kiến sẽ được QH khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 4 đã quy định điều chỉnh toàn bộ các hoạt động từ quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản; đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý hoạt động lâm nghiệp theo chuỗi giá trị.
Chỉ giao đất rừng nghèo kiệt để tránh bị lợi dụng?
Dự thảo Luật BV&PTR (sửa đổi) đã tiếp thu nhiều ý kiến của ĐBQH sau khi thảo luật tại Kỳ họp thứ 3. Trong đó, dự thảo Luật đã bổ sung quy định làm rõ các nội dung về chính sách chính sách phát triển lâm nghiệp; chính sách để đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống dựa vào rừng được giao rừng để sản xuất, được tiến hành các hoạt động văn hóa tín ngưỡng và được chia sẻ lợi ích từ rừng; bổ sung các quyền nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất, giao rừng nhằm phát triển lâm nghiệp và bảo đảm ổn định đời sống người làm nghề rừng.
Song tại phiên thảo luận về dự thảo tại Kỳ họp thứ 4, ĐB Nguyễn Văn Sơn (tỉnh Hà Tĩnh vẫn đề nghị lựa chọn một số chính sách gắn với thực tế những rừng nghèo kiệt, rừng biên giới và một số nội dung rõ nét hơn theo hướng “chính sách gắn với phát triển kinh tế lâm nghiệp trong phát triển chung của tái cơ cấu ngành nông nghiệp”. ĐB vẫn nhận thấy trong dự thảo Luật ở nhiều điều có nhiều chính sách, kể cả chính sách về phát triển chế biến lâm sản cho đến nhiều chính sách phải cân đối nguồn ngân sách Nhà nước gắn với chính sách này có hiệu lực, hiệu quả nên theo ĐB, “Không nên đề trong luật mà lại nợ chính sách thì không tốt”.
Đây là một trong những nội dung nhận được nhiều sự quan tâm của đại biểu Quốc hội (ĐBQH) nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc BV&PTR tự nhiên. Theo một số ĐBQH, việc giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư và cho tổ chức kinh tế thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên cần phải bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với việc giao đất, cho thuê đất theo quy định của Luật Đất đai; chỉ giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo kiệt để tránh bị lợi dụng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nhận thấy, Luật BV&PTR hiện hành và dự thảo Luật BV&PTR (sửa đổi) đều quy định nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng phải thống nhất, đồng bộ với giao đất, cho thuê đất. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực thi Luật BV&PTR đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên có hai vấn đề đặt ra. Đó là, tại Điều 135 Luật Đất đai (2013) không quy định giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư; Điều 29 Luật BV&PTR (2004) quy định giao rừng cho cộng đồng dân cư nhưng không quy định rõ loại rừng nào.
Để quản lý diện tích rừng này, tính đến năm 2016 ở nhiều địa phương đã giao cho cộng đồng dân cư quản lý trên 1,12 triệu ha. Các diện tích rừng này đã được cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ có hiệu quả, không có tranh chấp, phục vụ thiết thực đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, cho xã hội nói riêng và cho kinh tế - xã hội nói chung, góp phần bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia. Nếu thực hiện theo Điều 135 Luật Đất đai thì các diện tích này phải thu hồi lại và giao cho các tổ chức quản lý rừng quản lý. Như vậy, theo UBTVQH “sẽ làm phát sinh thủ tục chuyển đổi chủ sử dụng rừng không cần thiết; mặt khác sau khi thu hồi rừng của cộng đồng giao cho các tổ chức quản lý rừng sẽ vẫn phải giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư tại chỗ, chính họ là cộng đồng dân cư được giao rừng trước đó”. Để khắc phục tình trạng này, ngày 06/01/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, trong đó có quy định giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư.
Giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư
Cùng với đó, việc giao, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho các tổ chức kinh tế được thực hiện theo Luật BV&PTR năm 2004 (khoản 3 Điều 24, khoản 3 Điều 25). Hiện nay, Nhà nước đã giao 1,145 triệu ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho các công ty lâm nghiệp nhà nước. Để quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên này, dự thảo Luật đã quy định cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên đối với tổ chức kinh tế để phù hợp với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 119 và Điều 120).
Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội tiếp tục cho giữ quy định giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư; cho tổ chức kinh tế thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên đến hết thời hạn được giao, cho thuê để phù hợp với thực tiễn giao rừng, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên hiện nay.
Điều đó sẽ không làm xáo trộn chủ thể quản lý rừng và phát sinh thủ tục hành chính cũng như các chi phí chuyển đổi không cần thiết. Đồng thời, để thuận lợi cho việc triển khai thực hiện khi Luật có hiệu lực thi hành, khoản 2 Điều 114 Dự thảo Luật đã quy định rõ chủ rừng là tổ chức kinh tế được Nhà nước giao, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên trước ngày Luật này có hiệu lực thì được tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn được giao, cho thuê và sau đó phải chuyển sang thuê rừng.
Đặc biệt, qua tổng kết thực tiễn quản lý, bảo vệ rừng thời gian qua cho thấy, các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên giao cho các tổ chức kinh tế hầu hết chưa được quản lý, bảo vệ đúng mục đích, có tình trạng lợi dụng quyền là chủ rừng để khai thác lâm sản trái phép.
Trong bối cảnh tình trạng phá rừng, mất rừng tự nhiên diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn tới chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học thì trong dự thảo Luật chỉ quy định giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cho các chủ quản lý là tổ chức kinh tế như quy định tại điểm c, đ của khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 21; với các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 82, Điều 83 và không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng đặc dụng, rừng phòng hộ để tránh bị lợi dụng.
Trong trường hợp các tổ chức kinh tế muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái thì vẫn có thể hợp tác, liên kết với chủ rừng để thuê môi trường rừng.
“Tôi thấy quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất cho thuê đất để trồng rừng quy định tại Điều 89, 90 dự thảo là khá rõ. Nhưng có vấn đề thực tế đặt ra là vốn để trồng rừng đối với người dân là rất khó khăn. Qua thực tế khảo sát về tình hình thực hiện chính sách pháp luật về giao đất, giao rừng cho thấy phần lớn các hộ được giao đất lâm nghiệp hay được Nhà nước cho thuê đất để trồng rừng đều không có vốn để trồng nên những đất này vẫn còn để trống mặc dù giao đã lâu. Họ đều có nguyện vọng là được Nhà nước có nhiều dự án trồng rừng để họ có cơ hội được tham gia. Tôi thấy rằng ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước thì cần có cơ chế để hộ gia đình, cá nhân được liên kết với cá nhân và tổ chức nước ngoài, đặc biệt là người Việt Nam định cư ở nước ngoài để tranh thủ nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho việc trồng rừng. Trong các quyền quy định tại Điều 89, Điều 90 thì chưa thấy có cơ chế này”.
ĐB Dương Minh Tuấn (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu):
“Rừng về mặt bản chất cũng là một loại tài sản, tài nguyên đặc biệt gắn liền với đất đai. Chính sách về quản lý rừng không thể tách rời chính sách về quản lý đối với đất rừng. Theo khoản 1 Điều 135 của Luật Đất đai quy định giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Trong khi khoản 3 Điều 21 dự luật chỉ quy định Nhà nước giao rừng sản xuất không thu tiền sử dụng rừng đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn các xã nơi có diện tích rừng không có cụm từ “trong hạn mức”. Do vậy, xin đề nghị Quốc hội cân nhắc thêm về sự tương thích giữa Luật Bảo vệ và Phát triển rừng với Luật Đất đai trong vấn đề này”.
ĐB Nguyễn Văn Hiển (tỉnh Lâm Đồng):
“Theo Điều 108 dự thảo cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện. Kiểm lâm là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân quản lý việc bảo vệ rừng. Tuy nhiên, theo Điều 109, điểm b khoản 1 Điều 110 dự thảo kiểm lâm lại có nhiệm vụ bảo vệ khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Như vậy, kiểm lâm vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ rừng trong đó có thanh tra, kiểm tra việc bảo vệ rừng, trực tiếp bảo vệ rừng. Đây là cơ chế hiện nay đang thực hiện trên thực tế. Không ít ý kiến cử tri cho rằng cơ chế này có nhiều bất cập, lực lượng kiểm lâm làm 2 chức năng trên chẳng khác nào “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Thực tế có những trường hợp cán bộ kiểm lâm thoái hóa biến chất thì kiểm lâm lại chính là lực lượng tiếp tay cho “lâm tặc” phá hoại rừng nhưng lại không có cơ chế kiểm tra giám sát hữu hiệu. Do vậy, đề nghị dự thảo cần xây dựng cơ chế quản lý kiểm soát khoa học, tránh lạm dụng quyền lực, không giao hai chức năng quản lý trực tiếp thanh tra, kiểm tra cho một cơ quan”.