Theo Ngân hàng Nhà nước, qua công tác theo dõi, giám sát tình hình hoạt động của năm 2020, Ngân hàng Nhà nước nhận thấy một số tổ chức tín dụng có các dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro như nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng; tỷ lệ nợ xấu của một số công ty tài chính tiêu dùng ở mức cao và tăng lớn; lãi phải thu từ hoạt động tín dụng tăng lớn so với cuối năm 2019.
Ngoài ra, cũng trong năm 2020, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng, tốc độ tăng trưởng tín dụng bất động sản cao.
Đầu tư trái phiếu doanh nghiệp nhằm mục đích xây dựng, kinh doanh bất động sản vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Thậm chí, một số NHTM có số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tăng lớn so với năm 2019, trong đó, mức tăng thêm tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản.
Về cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán tăng lớn so với năm trước. Chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống và dư nợ tín dụng qua thẻ tín dụng suy giảm mạnh so với cuối năm 2019.
Năm 2020, nợ xấu cấp tín dụng đối với khách hàng lớn (doanh nghiệp có tổng mức cấp tín dụng từ 500 tỷ đồng trở lên) tăng so với cuối năm 2019. Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng tăng đáng kể, dẫn đến việc chưa phản ánh thực chất kết quả kinh doanh. Một số tổ chức tín dụng chưa quyết liệt trong công tác thu hồi tối đa nợ xấu, nợ đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro đưa ra theo dõi ngoại bảng.
Để đảm bảo an toàn hoạt động và hạn chế rủi ro, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Thống đốc tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ tiêu được giao thực hiện.
|
Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, dự án BOT, BT giao thông. |
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tổng tín dụng trong quý 1/2021 tăng 2,9% so với cuối năm 2020, cao hơn mức tăng 1,3% trong quý 1/2020 và xấp xỉ mức tăng 3,1% trong quý 1/2019.
Tuy nhiên, theo công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), tín dụng hỗ trợ các ngành ưu tiên tăng trưởng tương đối chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng chung. Các khoản cho vay lĩnh vực ưu tiên tập trung chủ yếu vào ngành nông nghiệp & khu vực nông thôn và doanh nghiệp vừa và nhỏ, lần lượt chiếm 24,6% và 19,5% tổng dư nợ.
Cập nhật từ Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, trong quý 1/2021, tín dụng chảy vào lĩnh vực này tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 3% so với cuối năm 2020. Tính tổng chung, tín dụng vào lĩnh vực bất động sản chiếm 19,6% tổng dư nợ của nền kinh tế.
Cũng tính đến hết quý 1/2021, dư nợ lĩnh vực chứng khoán 45.326 tỷ đồng, giảm 1% so với cuối năm 2020. Trong đó, dư nợ chứng khoán ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu 96,21%. Các dư nợ tập trung chủ yếu ở một số tổ chức tín dụng như: Ngân hàng Vietcombank chiếm 25,75% tổng dư nợ chứng khoán toàn hệ thống; Ngân hàng BIDV chiếm 13,47% tổng dư nợ chứng khoán toàn hệ thống, Techcombank chiếm 12,46%; TPBank chiếm 8,91%; VIB chiếm 5,25%; Vietinbank chiếm 4,25%, MSB chiếm 4,16%...
Tuy nhiên, theo con số margin của các công ty chứng khoán mà Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thống kê lên mức 101,4 nghìn tỷ đồng vào cuối quý 1/2021, tăng 53,6 nghìn tỷ đồng so cùng kỳ năm 2020, tương đương 53%..Điều này cho thấy, việc vay nợ thông qua dùng đòn bẩy tài chính tại chứng khoán đang ở mức rất nóng.
Ngân hàng Nhà nước đặc biệt yêu cầu các tổ chức tín dụng phải kiểm soát chặt chẽ mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, các dự án bất động sản có quy mô lớn; cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh bất động sản. Thận trọng cấp tín dụng đối với các khoản tín dụng bất động sản tại các địa bàn đang sốt đất, các dự án tiềm ẩn mức độ rủi ro cao.
Về tín dụng mục đích đầu tư kinh doanh chứng khoán phải kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng của dư nợ tín dụng đầu tư kinh doanh chứng khoán để hạn chế rủi ro. Tuân thủ các quy định về điều kiện, giới hạn cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Về tín dụng đối các dự án BOT, BT giao thông phải cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn để cho vay trung và dài hạn, trong đó có liên quan đến các dự án BOT, BT giao thông để hạn chế rủi ro thanh khoản. Tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước liên đến việc cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông.
Tổ chức tín dụng phải tập trung rà soát việc đầu tư trái phiếu đối với các doanh nghiệp có số dư phát hành trái phiếu lớn.