Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Luật sư công là lựa chọn phù hợp khi phát sinh các tranh chấp về kinh doanh, thương mại

(PLVN) - Do hoạt động kinh doanh, thương mại không nằm trong phạm vi của trợ giúp pháp lý nên đối với các vụ án có liên quan đến quyền lợi nhà nước, để giải quyết tình trạng khiếu nại tố cáo của người dân, đại diện cho cơ quan nhà nước có chuyên môn sâu để tham gia tranh tụng thì luật sư công là lựa chọn phù hợp hơn trợ giúp viên pháp lý.
Luật sư Bùi Bảo Ngọc tham gia trợ giúp pháp lý cho người dân tại trụ sở UBND xã Đông Sơn. (Ảnh: B.N)
Luật sư Bùi Bảo Ngọc tham gia trợ giúp pháp lý cho người dân tại trụ sở UBND xã Đông Sơn. (Ảnh: B.N)

1. Cơ sở chính trị - pháp lý của luật sư công/luật sư nhà nước

Kết luận số 69-KL/TW ngày 24/02/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư nêu rõ: “…Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút luật sư tham gia hoạt động tư vấn pháp luật, nhất là hoạt động tư vấn giải quyết tranh chấp quốc tế, phục vụ hội nhập quốc tế; tư vấn chính sách thu hút đầu tư, dự án kinh tế - xã hội ở Trung ương và địa phương”.

Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 07/10/2022 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo giao Chính phủ chỉ đạo Bộ Tư pháp nghiên cứu về chế định “luật sư công” giữ vai trò đại diện, giúp chính quyền địa phương tham gia các hoạt động tố tụng tại cơ quan tố tụng khi có yêu cầu và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Như vậy, đã có cơ sở chính trị - pháp lý về “luật sư công” tại Việt Nam nên hiện nay chúng ta cần nghiên cứu những chế định cụ thể đối với luật sư Nhà nước hay còn gọi là luật sư công tại nước ta.

2. Khái niệm “luật sư công” tại Việt Nam

Trong từ điển tiếng Việt hay trong tất cả các văn bản pháp quy hiện tại của Việt Nam chưa tồn tại khái niệm “luật sư công” hoặc “luật sư Nhà nước”. Hiện tại ở Việt Nam, các luật sư hành nghề theo Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) cũng không phân định về luật sư công hoặc tư. Chỉ có luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý với tư cách trợ giúp viên, luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ký hợp đồng với Sở Tư pháp để thực hiện trợ giúp pháp lý. Trong khoa học pháp lý cũng chưa có định nghĩa rõ ràng về luật sư công hoặc luật sư Nhà nước.

Luật sư Bùi Bảo Ngọc. (Ảnh: B.N)

Luật sư Bùi Bảo Ngọc. (Ảnh: B.N)

Hiện nay, có một số quan điểm về luật sư công, theo đó:

Có quan điểm cho rằng, luật sư công là công chức trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Theo quan điểm này, luật sư công làm việc trong bộ máy Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Quan điểm khác cho rằng, luật sư công là những luật sư được cơ quan, tổ chức Nhà nước thuê để thực hiện hoạt động pháp lý chuyên môn, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước. Ngoài ra, cũng có quan điểm thu hẹp phạm vi của luật sư công, chỉ những trường hợp được chỉ định bởi cơ quan tiến hành tố tụng mới coi đó là luật sư công.

Theo quan điểm của chúng tôi, luật sư công là luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Theo đó, luật sư công trước hết cần phải là “luật sư”, có thể được tuyển dụng hoặc ký hợp đồng làm việc dài hạn, chứ không nhất thiết phải là công chức trực thuộc Bộ Tư pháp.

Tiếp theo, nhiệm vụ của luật sư công là hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, mang tính đại diện cho Nhà nước, giúp các cơ quan Nhà nước tại địa phương hoặc Trung ương giải quyết vụ việc có liên quan đến lợi ích Nhà nước.

Một điểm nữa là ngoài các cơ quan Nhà nước, luật sư công còn giải quyết các vụ việc của doanh nghiệp Nhà nước, nhưng cũng cần xem xét đến giới hạn cụ thể doanh nghiệp Nhà nước tranh chấp với nước ngoài, tranh chấp với doanh nghiệp Nhà nước khác hay tranh chấp đối với doanh nghiệp ngoài Nhà nước nói chung.

3. Mối liên hệ giữa luật sư công và trợ giúp pháp lý

Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 quy định:

1. Trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại.

2. Các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm:

a) Tham gia tố tụng;

b) Tư vấn pháp luật;

c) Đại diện ngoài tố tụng.

Đối với trợ giúp viên pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý bị giới hạn, không thực hiện trợ giúp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Một điều dễ nhận thấy rằng, trong khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới, việc nâng cao trình độ cũng như hội nhập là rất cần thiết. Các trợ giúp viên pháp lý là viên chức, chủ yếu hoạt động bảo vệ, bào chữa đối với 7 nhóm đối tượng là: nhóm người có công với cách mạng; nhóm người thuộc hộ nghèo; trẻ em; nhóm người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nhóm người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; nhóm người thuộc một trong các trường hợp nhất định có khó khăn về tài chính.

Trợ giúp pháp lý trong những năm qua đã thực hiện được việc trợ giúp pháp lý đối với các đối tượng này để tạo ra sự công bằng cho các tầng lớp được hưởng các quyền tiếp cận pháp luật. Chúng tôi đánh giá cao về hoạt động trợ giúp pháp lý. Nhưng theo chúng tôi, như vậy là chưa đủ bởi hoạt động kinh doanh, thương mại không nằm trong phạm vi của trợ giúp pháp lý.

Đối với các vụ án có liên quan đến quyền lợi Nhà nước, để giải quyết tình trạng khiếu nại tố cáo của người dân, đại diện cho cơ quan Nhà nước có chuyên môn sâu để tranh tụng thì luật sư công là lựa chọn phù hợp hơn trợ giúp viên pháp lý - điều này phù hợp với khái niệm về luật sư công đã nêu tại mục (2).

Các luật sư công còn bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước ngay trong nước cũng như các vụ tranh chấp quốc tế, kinh doanh thương mại với các đối tác nước ngoài. Đây là lợi thế của luật sư công đối với trợ giúp viên pháp lý vốn chỉ hoạt động trợ giúp pháp lý đối với đối tượng thuộc 1 trong 7 nhóm đã nêu tại Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý.

Luật sư công đại diện cho Nhà nước, cụ thể là giúp chính quyền địa phương, trên địa bàn quận, huyện, hoặc tỉnh, thành phố tham gia các hoạt động tố tụng khi có yêu cầu, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Cụ thể, “luật sư công” phục vụ, đại diện cho Nhà nước khi có sự việc, vụ việc xảy ra gắn liền với quyền, lợi ích của Nhà nước, giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo của công dân đối với cơ quan Nhà nước; khắc phục tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp hoặc đại diện Nhà nước tham gia tranh tụng đối với các vụ tranh chấp liên quan đến quyền lợi của Nhà nước.

Cần phải có “luật sư công” chứ không phải là các trợ giúp viên pháp lý, bởi vì trợ giúp viên thực hiện trợ giúp pháp lý đối với đối tượng nhất định và bản chất của trợ giúp pháp lý là cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý đã được quy định trong Luật. Để bổ sung khiếm khuyết này, cần thiết phải quy định thiết chế “luật sư công” trong Luật Luật sư để bảo vệ quyền lợi Nhà nước.

Việc quy định về chế định luật sư công trong Luật Luật sư không mâu thuẫn với Luật Trợ giúp pháp lý mà ngược lại sẽ là thiết chế bổ sung hiệu quả về mặt lập pháp, cũng như thực tiễn đối với vai trò giúp chính quyền địa phương tham gia hoạt động tố tụng tại cơ quan tố tụng khi được yêu cầu.

Xây dựng thiết chế về luật sư công sẽ tạo ra được hành lang pháp lý thông thoáng, bắt nhịp được các kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã có nền pháp lý lâu đời như Thụy Điển, Nhật Bản, Anh, Hoa Kỳ. Dựa trên kinh nghiệm của các nước kết hợp với thực tiễn về pháp lý đang diễn ra tại Việt Nam khi nhiều doanh nghiệp Nhà nước bị lép vế trong quá trình tham gia kinh doanh thương mại toàn cầu hóa cùng các đối tác xuyên biên giới.

Luật sư Bùi Bảo Ngọc phát biểu tại Hội nghị Tuyền truyền Luật Đất đai năm 2024. (Ảnh: B.N)

Luật sư Bùi Bảo Ngọc phát biểu tại Hội nghị Tuyền truyền Luật Đất đai năm 2024. (Ảnh: B.N)

Đây đang là vấn đề rất được Đảng, Nhà nước quan tâm khi trên thực tế xảy ra rất nhiều vụ việc doanh nghiệp lớn của Nhà nước bị xử ép, hay bị thua kiện, dẫn đến đền bù khoản tiền rất lớn mà báo chí từng phản ánh.

Hay có rất nhiều các vụ kiện liên quan đến chống bán phá giá như Mỹ điều tra chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC) đối với thép chống ăn mòn (thép CORE) nhập khẩu từ Việt Nam.

Để phòng, tránh các rủi ro pháp lý như trên, việc đưa ra các chế định về luật sư công có chuyên môn cao, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước trên bình diện quốc tế mang ý nghĩa thực tiễn hết sức cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, thiết chế về luật sư công hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại quốc tế sẽ đạt kết quả cao nếu các luật sư được đặt đúng vai trò, nhiệm vụ của mình. Các luật sư công được tuyển chọn có chuyên môn sâu, có biện pháp giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp Nhà nước từ khi ký kết hợp đồng kinh doanh, thương mại với đối tác nước ngoài, chứ không phải đợi đến khi xảy ra tranh chấp lúc đó mới đi thuê luật sư nước ngoài vừa tốn kém chi phí mà không hiệu quả bằng luật sư “nước nhà”.

4. Các cơ chế đối với luật sư công tại Việt Nam

Thứ nhất, tiêu chuẩn lựa chọn luật sư công: Theo chúng tôi, tiêu chuẩn luật sư công cần nâng cấp hơn so với tiêu chuẩn trở thành luật sư hiện nay. Ngoài các tiêu chuẩn về luật sư, cần quy định về lĩnh vực chuyên môn sâu, có khả năng ngoại ngữ tốt, kinh nghiệm làm việc chuyên môn sâu 10 năm trở lên, phải trải qua kỳ phỏng vấn ngoại ngữ, có đề thi riêng để tuyển chọn.

Thứ hai, phân bổ chi phí, nơi làm việc cho luật sư công: Đối với các luật sư công nguồn phân bổ kinh phí từ Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, bởi công việc của luật sư công là bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, vấn đề là cần chi phí hợp lý để các luật sư công tác. Cần xây dựng cụ thể về chi phí đối với luật sư công theo tiêu chí lương hàng tháng cố định, mỗi vụ việc sẽ được hưởng thêm phần trăm hay có thù lao theo từng vụ việc. Còn nơi làm việc của luật sư công có thể làm việc tại trụ sở của Liên đoàn Luật sư Việt Nam thay vì thành lập cơ sở riêng, gây lãng phí tài nguyên của Nhà nước.

Thứ ba, thủ tục khi cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước mời luật sư công: Đối với cơ quan Nhà nước khi yêu cầu luật sư tư vấn, tham gia tố tụng thì cơ quan Nhà nước đề nghị luật sư bảo vệ cho quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức mình.

Đối với doanh nghiệp Nhà nước mời luật sư tư vấn, bảo vệ quyền lợi ích của doanh nghiệp mình thì đơn vị chủ quản doanh nghiệp mời luật sư công tham gia bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp mình theo điều lệ của doanh nghiệp quy định không trái quy định pháp luật.

Thứ tư, khi luật sư công bảo vệ cho doanh nghiệp Nhà nước này thì sẽ không bảo vệ cho quyền lợi của doanh nghiệp Nhà nước khác nếu trong cùng 1 vụ kiện, 2 doanh nghiệp có quyền lợi đối lập nhau. Đây cũng là vấn đề cần xem xét kỹ càng khi xây dựng thiết chế luật sư công, để tránh việc chồng chéo về các quy định trong quan hệ luật sư với khách hàng.

Đến nay, việc đối mặt của Việt Nam trên trường quốc tế với các vấn đề pháp lý khi hội nhập quốc tế, kinh doanh, thương mại với nước ngoài là điều tất yếu. Để phòng, tránh rủi ro trước khi xuất hiện các vấn đề kiện tụng đối với các doanh nghiệp nước ngoài thì cần thiết có đội ngũ luật sư chuyên môn, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước trên bình diện quốc tế, tận dụng các nguồn lực sẵn có với mức chi phí hợp lý.

Việc xây dựng thiết chế luật sư công phục vụ cho cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước là xu thế cần thiết, nhưng cơ chế để xây dựng cần dựa trên thực tiễn, đáp ứng các nhu cầu của thực tiễn thì các quy định của pháp luật mới có thể thực hiện. Theo quan điểm của chúng tôi, chế định luật sư công cần nghiên cứu kỹ để sửa đổi trong Luật Luật sư 2012, xây dựng các bước đệm để đến khi Luật có hiệu lực thì có thể thi hành trong thực tiễn, bởi chỉ có thực tiễn mới đánh giá được các quy định có hiệu quả hay không./.

Đọc thêm