Luật sư Trần Hoàng Hà trả lời:
Như thông tin bạn cung cấp, bạn và người bán hàng có thực hiện hợp đồng mua hàng, theo đó, bạn đã thực hiện nghĩa vụ giao tiền nhưng bên bán hàng lại giao hàng không đúng như hợp đồng đã thỏa thuận trước đó. Vì vậy, có thể xác định đây là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, bạn có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân nơi công ty đặt trụ sở để được giải quyết, kèm theo đơn khởi kiện bạn cần cung cấp các chứng cứ chứng minh quan hệ hợp đồng giữa hai bên.
Nếu bên kia vẫn không thực hiện theo đúng hợp đồng, có dấu hiệu lừa đảo thì theo Điều 174 - Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có quy định như sau: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.
Như vậy, trong trường hợp người bán hàng đã từng vi phạm thuộc một trong các điểm tại khoản 1 nêu trên thì dù số tiền chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng (cụ thể là 630.000 đồng) thì người đó vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Còn nếu trong trường hợp người bán hàng chưa từng vi phạm các điểm trong khoản 1 nêu trên thì với số tiền là 630.000 đồng sẽ không đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, trường hợp không đủ dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người đó sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó, người nào dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng; đồng thời sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.