Những tư liệu "vô nhị" khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

“Năm 1816, trước những hoạt động mạnh mẽ, liên tục để thực thi chủ quyền một cách kiên quyết và đồng bộ, vua Gia Long đã chính thức cắm một mốc lớn trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều người phương Tây đương thời lúc đó đã nói đây là một hành động độc nhất vô nhị, và họ không thể hình dung nổi sau này ai có thể tranh dành được chủ quyền với quốc gia đó”.

Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài Biển Đông và vịnh Thái Lan. GS.TS Nguyễn Quang Ngọc – Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho biết: “Năm 1816, trước những hoạt động mạnh mẽ, liên tục để thực thi chủ quyền một cách kiên quyết và đồng bộ, vua Gia Long đã chính thức cắm một mốc lớn trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhiều người phương Tây đương thời lúc đó đã nói đây là một hành động độc nhất vô nhị, và họ không thể hình dung nổi sau này ai có thể tranh dành được chủ quyền với quốc gia đó”.

Tư liệu, bản đồ khẳng định “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam”.

Đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XIX vua Minh Mệnh đã đưa hoạt động chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa lên đỉnh cao nhất của thời quân chủ  với nhiều hình thức và biện pháp. Như khai thác hóa vật, hải sản, tổ chức thu thuế, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, cứu hộ tàu thuyền bị nạn, lập bia chủ quyền…

Nhiều tư liệu trong dân gian và cả tư liệu ở nước ngoài thu thập được (mang dấu ấn của triều đình lúc đó) cho thấy vua Minh Mệnh đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề chủ quyền ở Biển Đông.

Ví dụ điển hình là ở Nghi Sơn người ta phát hiện ra một văn bản ghi rõ cách lãnh đạo, tổ chức cho người ra Hoàng Sa, Trường Sa như thế nào (có dấu của Triều Đình), ngoài ra còn tìm thấy những bản tấu, báo cáo xin ra Hoàng Sa, vì điều kiện thời tiết không thuận lợi hoặc do vua bận quá nên tạm trì hoãn, vua đã phê lý do và ghi chữ “đình” lên những bản báo cáo đó.

Xét về mặt văn bản thì đây là những bằng chứng hết sức có giá trị, cho thấy sự quan tâm cụ thể của vua chúa lúc bấy giờ đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1909, lợi dụng hoàn cảnh Việt Nam đang bị mất chủ quyền và thực dân Pháp chiếm giữ chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc lần đầu tiên cho người ra Hoàng Sa, tự phong là có công “phát hiện” và tùy tiện đặt tên mới cho đảo. Mở đầu giai đoạn tranh chấp, tranh biện trên Biển Đông kéo dài đến tận ngày nay.

Bộ tư liệu về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa vô cùng phong phú, đa dạng, là toàn bộ sự thật mang đậm chất liệu đời sống của con người và ý chí Việt Nam từ thời xưa cho đến nay.

Gần 150 bản đồ cùng nhiều các tư liệu, văn bản, hiện vật, ấn phẩm khác được tìm thấy bởi các nhà nghiên cứu, học giả ở trong nước và quốc tế.

Ông Lê Văn Nghiêm – Cục trưởng cục Thông tin Đối ngoại nói: “Đã có chủ trương để công bố giới thiệu những bằng chứng lịch sử chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam ra rộng rãi bạn bè quốc tế, tuy nhiên, công tác tuyên truyền đối ngoại bị phụ thuộc vào tuần Việt Nam, ngày Việt Nam ở nước ngoài.

Vì vậy sẽ cố gắng làm số hóa 4 file tư liệu bao gồm văn bản, nghe nhìn, bản đồ và phim ảnh để có điều kiện hiểu hơn về chủ quyền biển đảo Việt Nam”.

Phiên bản của các văn bản Hán Nôm, Văn bản Việt ngữ và Pháp ngữ do triều đình phong kiến Việt Nam ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX và 95 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa hiện có tại Viện bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam chưa phải là tất cả. Thực tế, vẫn còn rất nhiều các bằng chứng cụ thể, có giá trị bị tản mát ở nhiều nơi và đang trong quá trình thu thập, tìm kiếm.

Năm 1908, 1919 và 1933, nhà nước Trung Quốc đã xuất bản ba cuốn atlats (tập bản đồ chính thức) gồm atlats Trung Quốc địa đồ, và hai bản atlats Trung Hoa bưu chính dự đồ in bằng ba thứ tiếng Anh – Trung – Pháp. Cương giới cực Nam của Trung Quốc trong các atlat này luôn chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam mà không hề nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Chứng tỏ rằng cho đến khi nhà Thanh phát hành các atlat này vào năm 1980 và sau đó chính quyền Trung Hoa dân quốc tái bản vào năm 1919 và 1933, thì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vẫn nằm ngoài cái gọi là “chủ quyền lịch sử” hết sức phi lý của Trung Quốc.

Vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vẫn đang được thực hiện một cách liên tục, từng bước khẳng định giá trị lịch sử chủ quyền bằng cách xác lập trên cơ sở hòa bình.

Tại buổi triển lãm Bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chức lịch sử” nhóm 6 bạn trẻ đến từ khoa xã hội học trường Đại học KHXH&NV đã đến tìm hiểu để có thêm tư liệu cho bài dự thi “Tuổi trẻ với tình yêu biển đảo quê hương” do ban tuyên giáo TW Đoàn và tạp chí Thanh niên phát động.

Sinh viên Nguyễn Phương Liên tâm sự: “Được tận mắt chứng kiến những mảng tư liệu bản đồ, thư tịch cổ phương Tây cùng một số hiện vật được trưng bày, đặc biệt là những hình ảnh, tư liệu về hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội của Hoàng Sa, Trường Sa thời gian gần đây, là thế hệ trẻ tôi cảm thấy mỗi cá nhân cần phải đóng góp sức mình để gìn giữ, tiếp nối bảo vệ mỗi tấc đất, tấc biển của ông cha để lại”.

Anh Trần Thắng là một Việt kiều Mỹ trẻ tuổi nhưng đã dốc nhiều tâm huyết trong việc tìm tòi và sưu tập bản đồ phương Tây về vấn đề chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Anh đã hiến tặng toàn bộ số bản đồ anh đã thu thập khoảng gần 200 tấm bản đồ có giá trị to lớn cho Nhà nước, giúp làm chặt chẽ thêm những lập luận khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam – điều đó được minh chứng bằng lịch sử lâu đời và dựa trên luật pháp quốc tế - bất kì một quốc gia nào cũng không có quyền xâm phạm.   

Thu Hương

Đọc thêm