Sáng 17/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh sự cần thiết ban hành Luật về cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn.
Với những cơ sở này, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó “nới lỏng” chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực quốc tịch là cần thiết; nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số... Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Bộ trưởng cho biết, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung nội dung của 19/44 điều và bãi bỏ 01 điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể, sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam. Trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định khoản 2 và khoản 3 Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao. Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19. Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam và sửa đổi, bổ sung một số quy định có liên quan nhằm khẳng định chủ quyền của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam; đề cao vai trò, ý nghĩa và giá trị của quốc tịch Việt Nam; bảo đảm sự thống nhất về việc áp dụng pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam nhằm bảo đảm vấn đề an ninh, lợi ích quốc gia cũng như tính trung thành, trách nhiệm của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi tham gia vào các cơ quan dân cử, các cơ quan của hệ thống chính trị, tham gia lực lượng vũ trang, cơ yếu... Để tạo sự linh hoạt, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, dự thảo Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Dự thảo Luật còn bỏ quy định về Phiếu Lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp trong thành phần hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20, điểm d khoản 1 Điều 23 và điểm d khoản 1 Điều 28, nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính vì dự thảo Luật đã quy định cơ quan công an có trách nhiệm xác minh nhân thân đối với tất cả các trường hợp xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam. Việc cắt giảm giấy tờ này bảo đảm phù hợp với yêu cầu tại Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp.
Riêng đối Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp trong thời gian cư trú ở nước ngoài, người yêu cầu vẫn phải nộp trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam để chứng minh có nhân thân tốt, đáp ứng điều kiện không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam quy định tại Điều 19 và Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, đổi tên “Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp” thành “Giấy tờ chứng minh thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp phù hợp với pháp luật của nước đó” bảo đảm tính linh hoạt, tạo thuận lợi cho người yêu cầu…
|
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra. (Ảnh: Cổng TTĐTQH) |
Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp (UBPLTP) của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, UBPLTP cơ bản tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung được nêu tại Tờ trình của Chính phủ; tán thành trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 6, khoản 9 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 21, khoản 3 Điều 25 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành); tán thành việc quy định trong Luật các điều kiện mang tính nguyên tắc đối với trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài quy định tại điểm c khoản 7 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).
Bên cạnh đó, UBPLTP có ý kiến về một số nội dung cụ thể của dự thảo Luật. Về quan hệ giữa Nhà nước và công dân, có ý kiến đề nghị cân nhắc thận trọng quy định này, trường hợp đặc biệt chỉ nên xem xét, áp dụng đối với đối tượng được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh vào các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và địa phương; người được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập mà cần phải thu hút, tạo điều kiện để tuyển dụng nhân tài.
UBPLTP đề nghị cân nhắc quy định “Trường hợp Luật có liên quan khác với quy định này thì áp dụng quy định của Luật này” bởi mâu thuẫn với quy định tại khoản 4 Điều 58 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị Chính phủ nghiên cứu, cân nhắc bổ sung cụm từ “nhưng không khác với các luật có quy định cụ thể về quốc tịch” vào sau cụm từ “trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định” thay cho quy định này.
Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam, UBPLTP cơ bản tán thành nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam như quy định tại khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật nhằm góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Ngoài ra, đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để quy định phù hợp điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam” đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam mà có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; làm rõ thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 19 có cần liên tục không.
Về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam, UBPLTP cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo Luật và cho rằng, nội dung sửa đổi này là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa yêu cầu tại các văn bản, chỉ đạo của Đảng, tạo điều kiện khuyến khích và thuận lợi hơn cho những người đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam, đồng thời phù hợp với thay đổi của tình hình thực tiễn, bảo đảm tính ổn định, lâu dài của Luật. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể các điều kiện “có thể” được trở lại quốc tịch Việt Nam ngay trong Luật vì liên quan đến quyền trở lại quốc tịch của người Việt Nam ở nước ngoài.