Phụ nữ mang thai được Luật Lao động bảo vệ thế nào?

(PLVN) - Dự thảo sửa đổi mới nhất của Bộ luật Lao động quy định tại Điều 137 về bảo vệ thai sản đã sửa theo hướng, nếu không được sự đồng ý của người lao động (NLĐ) thì người sử dụng lao động không được sử dụng NLĐ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp mang thai từ tháng thứ 7 hoặc tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo và lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi...
Phụ nữ làm việc tốt hơn hay kém hơn nam giới, hay là như nhau?
Phụ nữ làm việc tốt hơn hay kém hơn nam giới, hay là như nhau?

Xung quanh nội dung này hiện đang có hai luồng ý kiến. Một số ý kiến cho rằng đó là quyền được mưu sinh, bản thân phụ nữ mang thai 7 tháng nếu thấy đủ sức khỏe và khả năng vẫn được quyền làm thêm giờ. Một luồng ý kiến khác cho rằng với đối tượng mang thai từ 7 tháng trở lên dù rằng có muốn, luật cũng không cho phép làm thêm để bảo đảm sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em.

Nếu thỏa thuận, phụ nữ sẽ vác bụng bầu to đi làm vì mưu sinh

Mới đây, để phản biện xã hội dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (LHPNVN) phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức hội nghị tập hợp nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan và đại diện NLĐ, người sử dụng lao động của nhiều ngành nghề. 

Liên quan đến quy định tại Điều 137 về bảo vệ thai sản, là công nhân thủy sản trực tiếp sản xuất tại Công ty CP Đồ hộp Hạ Long (Quảng Ninh), chị Trần Thị Hường chia sẻ rằng, nếu thể hiện theo tính chất thỏa thuận như dự thảo luật sẽ là bất lợi rất lớn cho các công nhân nữ.

“Với công nhân, vì mưu sinh nên thu nhập rất quan trọng. Nhưng luật đồng ý để họ được làm thêm giờ theo thỏa thuận, vô tình kích thích những chị em mang thai 6 - 7 tháng đi làm thêm để tăng thu nhập, điều này không hề hợp lý với NLĐ trực tiếp, công việc nặng nhọc như chị em chúng tôi” - chị Hường cho biết.

Ở góc độ khoa học về sức khỏe của bà mẹ trẻ em, đại diện Vụ Sức Khỏe Bà mẹ và Trẻ em - Bộ Y tế nêu quan điểm không nên để phụ nữ mang thai làm thêm giờ, kể cả khi họ đồng thuận. Pháp luật cần chặt chẽ quy định không cho phép họ làm.

Đặc biệt, Chính phủ cũng cần cụ thể hóa hơn khi quy định danh mục ngành nghề không được phép làm đối với phụ nữ mang thai hoặc cho con bú như những ngành hóa chất độc hại, tránh tình trạng vì mưu sinh mà những đối tượng này vẫn bất chấp để làm.

“Quan điểm nhất quán của Hội LHPNVN ngay từ đầu là không đồng ý làm thêm giờ (đặc biệt là làm thêm giờ vào ban đêm) đối với lao động nữ mang thai 6 hoặc 7 tháng tuổi trở lên nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho phụ nữ, trẻ em. Bà mẹ mang thai 6, 7 tháng tuổi mà vẫn đi làm thêm giờ thì rất không tốt cho sức khỏe bà mẹ, thai nhi, bất trắc xảy ra thì hệ lụy khôn lường” - bà Nguyễn Thị Thu Hà - Chủ tịch Hội LHPNVN nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Ngân, đại diện MTTQ Việt Nam cũng cho rằng, yếu tố mang tính thỏa thuận theo Điều 137 của dự luật cần xem xét kỹ lưỡng. Theo bà, quy định nào thuộc về đảm bảo quyền lợi của NLĐ bắt buộc phải bảo vệ thì cần cứng rắn, điều này sẽ hợp lý hơn là hướng thỏa thuận của hai bên.

Sẽ có danh sách 1.748 ngành nghề được giảm tuổi hưu 

Cũng tại hội nghị, bà Nguyễn Thị Thu Hà lần đầu tiên công bố số liệu khảo sát do Hội LHPNVN thực hiện trên hơn 1 triệu lao động các tỉnh, thành liên quan đến tăng tuổi hưu. Theo đó, có 49,3% NLĐ được khảo sát đồng ý việc tăng tuổi nghỉ hưu ở một số nhóm đối tượng; 50,7% NLĐ không đồng ý tăng tuổi hưu và cho rằng NLĐ cần được quyền nghỉ hưu sớm hơn.

Được biết, phương án cơ bản là nâng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62 tuổi vào năm 2028 và nữ lên 60 tuổi vào năm 2035. Theo lộ trình, từ năm 2021, mỗi năm sẽ tăng 3 tháng tuổi hưu cho nam và 4 tháng cho nữ. Việc tăng tuổi hưu, theo ông Bùi Sĩ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội là việc cần thiết phải làm, nhằm đáp ứng yêu cầu già hóa dân số của Việt Nam trong tương lai.

Riêng với các ngành nghề nặng nhọc độc hại, NLĐ được quyền nghỉ hưu trước 5 năm hoặc có thể dài hơn do các luật khác quy định. “Chính phủ sẽ có phụ lục quy định danh mục toàn bộ 1.748 ngành nghề, lĩnh vực trong diện được giảm tuổi hưu từ tối thiểu 5 năm trở lên” – ông Lợi thông tin.

Là công nhân trực tiếp sản xuất ở lĩnh vực thủy sản, chị Trần Thị Hường cho biết, công nhân ngành thủy sản rất vất vả, gần như phải đứng trong gần 48 tiếng liên tục, thường xuyên tiếp xúc với nóng và lạnh, rất vất vả, nặng nhọc. “Thực tế tại công ty chúng tôi là những ai đủ tuổi đóng bảo hiểm 20 năm đều xin về hưu sớm chứ chưa cần chờ đến đủ 55 tuổi” – chị Hường nói.

Từ góc độ thực tiễn công nhân trực tiếp sản xuất ở lĩnh vực thủy sản, cứ đủ tuổi đóng bảo hiểm 20 năm đều xin về hưu sớm chứ chưa cần chờ đến đủ 55 tuổi, bà Nguyễn Thị Thu Hà cho rằng, nếu chỉ quy định giảm tuổi hưu cho NLĐ thuộc các lĩnh vực nặng nhọc độc hại, thì vô hình trung tuổi hưu của đối tượng này vẫn là ở mốc 55 tuổi - giữ nguyên quy định tuổi nghỉ hưu hiện tại.

“Chúng tôi ủng hộ quan điểm có những ngành nghề không chỉ nghỉ hưu sớm 5 năm mà còn là 10 năm so với quy định” - bà Hà nói. Do đó, theo Chủ tịch Hội LHPNVN thì việc điều chỉnh tuổi hưu theo hướng linh hoạt là cần thiết và phù hợp, khi tiếp cận ở góc độ cả quyền và trách nhiệm của NLĐ, tính đến các điều kiện, tính chất lao động theo các nhóm lao động khác nhau.

So với nam giới, phụ nữ làm việc thế nào?

Năm 2018, Ngân hàng Thế giới (WB) đã có nghiên cứu về “Tương lai việc làm Việt Nam - Dưới góc nhìn giới”. Theo đó, trong 100 quốc gia trên thế giới được nghiên cứu thì Việt Nam có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao hơn hầu hết các nước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ ở Việt Nam chiếm khoảng 76%, nghĩa là khoảng 78% phụ nữ từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hoặc đang tìm kiếm việc làm.

Chỉ tiêu thứ hai để trả lời câu hỏi về hiện trạng giới là tiền lương. Trong giai đoạn 2011-2014, nữ giới làm cùng ngành nghề với nam giới, bằng tuổi với nam giới, có đặc điểm nhân khẩu học như nam giới, có thu nhập thấp hơn nam giới khoảng 15,4% (vào năm 2011) và 12,5% (vào năm 2014). Tuy con số khoảng cách tiền lương chênh lệch có giảm, nhưng vẫn tồn tại chứ không hề biến mất. 

Ở góc độ so sánh luật pháp của các quốc gia, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, pháp luật về lao động Việt Nam luôn có những quy định cụ thể về phụ nữ mang thai và cho con bú. Ở một số quốc gia như: Campuchia, Indonesia, Lào, Phillipines và Singapore, phụ nữ mang thai và cho con bú có thể làm bất kỳ công việc nào mà nam giới làm.

Nhưng các quốc gia khác như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Mông Cổ, Việt Nam lại không cho phép như vậy. Luật pháp của các nước này đánh giá nữ giới có những chức năng sinh học khiến họ không thể làm các công việc giống như nam giới có thể làm. Như vậy, từ đây, một câu hỏi đặt ra là phụ nữ làm việc tốt hơn hay kém hơn nam giới, hay là như nhau?

Theo nghiên cứu của WB, ở Việt Nam, phụ nữ đảm nhiệm phần lớn công việc hiện đại trong các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc nước ngoài. Tính đến năm 2012, nữ giới chiếm 53% các công việc liên quan đến xuất khẩu so với con số 35% ở nam giới. Tính đến năm 2015, 68% công nhân làm việc trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là nữ, tương đương gần 1,5 triệu lao động.

Khi xem xét trình độ kỹ năng kết hợp với công việc, phụ nữ có xu hướng co cụm trong các ngành nghề được trả lương thấp và trong các hình thức công việc truyền thống. Gần 52% lao động nông nghiệp là nữ so với 48% ở nam. Khoảng 55% chủ doanh nghiệp hộ gia đình là nữ, so với 45% ở nam.

Lao động nông nghiệp gia đình và doanh nghiệp hộ gia đình có thu nhập trung bình thấp hơn so với làm công ăn lương và với những con số trên có thể nói phụ nữ tập trung vào các ngành nghề với yêu cầu kỹ năng thấp nhất, điều kiện làm việc kém nhất và mức lương thấp nhất…

…Từ những vấn đề trên đây có thể thấy, mặc dù pháp luật về lao động có nhiều điều khoản hỗ trợ bình đẳng giới, nhưng các khoảng cách giới vẫn tồn tại theo nhiều khía cạnh trên thị trường lao động. Vì thế, theo WB, định hướng tương lai để trở thành quốc gia thịnh vượng, sáng tạo và năng động thì Việt Nam cần sửa đổi một số vấn đề trong pháp luật lao động nhằm trao cho phụ nữ quyền tự quyết lớn hơn đối với quãng đời làm việc của họ; tạo môi trường bình đẳng giữa nam và nữ trong quãng đời làm việc cũng như trong vai trò làm cha mẹ và thành viên gia đình; thúc đẩy bình đẳng giới trên thị trường lao động. 

Đọc thêm