Báo PLVN xin trân trọng giới thiệu bài viết tâm huyết của GS.TS Trần Ngọc Đường - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội về vấn đề này.
Đề cao chủ quyền Nhân dân
“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đã được trang trọng ghi nhận tại điều 2 Hiến pháp năm 2013. Đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền Nhân dân, khẳng định ở “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (Điều 2). Tuy nhiên, so với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi có những nội dung mới thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vấn đề “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.
Trước hết, “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” quy định ở điều 2 Hiến pháp sửa đổi là một quy định nền tảng chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích và sức mạnh của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở Nhân dân. Nguyên lý đó được quy định trong tất cả các Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta. Tuy nhiên, điểm mới so với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp tư tưởng “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Bởi Hiến pháp sửa đổi quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Thông qua Hiến pháp, Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước.
Vì thế, không chỉ điều 2 quy định nội dung nói trên mà còn rất nhiều điều thể hiện sâu sắc và nhất quán tư tưởng đề cao chủ quyền Nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi đã long trọng tuyên bố Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”, đến việc bổ sung đầy đủ các hình thức Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6), bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân” (Khoản 1 Điều 2), Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3 Điều 2). Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi, bổ sung năm 2011) cũng nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để kiểm soát được quyền lực nhà nước đòi hỏi phải hình thành cơ chế bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước, giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và trong nội bộ mỗi quyền; và kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bao gồm kiểm soát của Nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Với nhận thức đó, kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các chương của Hiến pháp sửa đổi; đặc biệt là trong các chương về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát. Trong các chương này của Hiến pháp sửa đổi đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng; nhiệm vụ quyền hạn của từng cơ quan. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế Nhân dân đánh giá, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây là cơ sở Hiến định để sau này các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước sẽ cụ thể hóa cơ chế đó.
GS.TS Trần Ngọc Đường - nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội |
Đáng chú ý, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, thuật ngữ quyền con người được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992. Đó là bước phát triển về quan niệm và nhận thức lý luận. Tuy nhiên, cách thể hiện các quyền con người và quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ và sâu sắc quan niệm về chủ quyền Nhân dân. Với triết lý Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp sửa đổi trang trọng tuyên bố sau Chương I chế độ chính trị.
Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta khẳng định các nguyên tắc: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Điều 14). Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, hạn chế sự tùy tiện cắt xén từ phía Nhà nước; đồng thời là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Không có tư duy đề cao chủ quyền Nhân dân, không thể có các quy định nền tảng đó của Hiến pháp sửa đổi.
Với nhận thức Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân, Hiến pháp sửa đổi đã thừa nhận Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Phương tiện để Nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình, đó là thực hành quyền lập hiến. Bằng quyền lập hiến của mình, Nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Theo đó, có thể thấy rằng quyền lập hiến là quyền lực tối cao so với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều khởi xướng từ quyền lập hiến.
Bên cạnh đó, để phản ảnh một giai đoạn mới của việc đề cao chủ quyền Nhân dân, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện một cách sâu sắc sự hòa hợp dân tộc, sự hài hòa về lợi ích và sự đồng thuận xã hội nhằm tạo nên sức mạnh để phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính trị, kinh tế đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới.
Trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền con người, Hiến pháp năm 2013 có một nhận thức mới trong việc quy định vai trò và nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Khoản 3 Điều 102 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, sau đó mới quy định: “Bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là: “Bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, sau đó mới quy định: “Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…” (Khoản 3 Điều 107). So sánh với quy định của Hiến pháp năm 1992, có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã có một sự đổi mới về nhận thức; sự tồn tại của hai thiết chế này, trước hết và chủ yếu là để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây là tư duy về một nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
(Tít bài do Tòa soạn đặt)