Một hợp đồng dân sự được ký kết với những qui định rất cụ thể và chặt chẽ. Khi hợp đồng chấm dứt giữa chừng, hai bên nhờ đến Tòa án nhưng Tòa hai cấp phớt lờ những điều khoản mà hai bên đã ký kết, tuyên án dựa vào những chứng cứ dư luận nghi vấn là ngụy tạo…
Hợp đồng không quy định bồi thường
Ông Nguyễn Hữu Phước là chủ sở hữu hai miếng đất tại thửa số 573 và 484 thuộc khu vực Thới Lợi - Phước Thới-Ô Môn - TP Cần Thơ. Năm 2003, ông Phước nhờ anh mình là ông Phan Quang Nghĩa làm đại diện hợp đồng với ông Lê Quang Bảo - Đội máy kéo Cần Cuốc Nông trường Sông Hậu - đào ao để nuôi vịt.
Ao đào xong, ông Phước không có điều kiện nuôi và để trống. Năm 2005, ông Phước cho bà Phan Thị Phải (vợ ông Phước - đã ly hôn) mướn lại toàn bộ ao và đất để nuôi vịt. Bà Phải nuôi vịt thua lỗ nên cho ông Quách Thành thuê để cải tạo lại thành ao nuôi cá.
Trong hợp đồng thuê ao nuôi cá, hai bên ký kết: bên B ( tức bên ông Quách Thành) chịu chi phí phát sinh để hoàn tất ao nuôi. Khi kết thúc hợp đồng, ao sẽ thuộc về ông Nguyễn Hữu Phước, ông Nguyễn Hữu Phước sẽ không thanh toán lại cho ông Quách Thành bất cứ khoản chi phí nào. Hợp đồng này do ông Phước làm đại diện bên A.
Đến tháng 10/2006, ông Quách Thành cho bà Đặng Thụy Tường thuê lại ao để nuôi cá (ông Quách Thành chỉ trả tiền thuê năm đầu tiên rồi không liên hệ thuê tiếp nữa hay không). Ngày 19/12/2006, UBND quận Ô Môn thu hồi khu đất trên để xây dựng nhà máy Nhiệt điện Ô Môn theo quyết định số 3254/QĐ-UBND ngày 19/12/2006; do đó, hợp đồng thuê ao nuôi cá của ông Phước và ông Quách Thành phải chấm dứt trước thời hạn.
Có dấu hiệu chứng cứ ngụy tạo
UBND quận Ô Môn tiến hành bồi thường cho ông Phước theo luật định. Ông Nguyễn Văn Đê -Trưởng Ban giải phóng mặt bằng quận Ô Môn- nói: “Trong quá trình định giá, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng chúng tôi không nhận được bất cứ đơn khiếu nại nào của ông Quách Thành về việc đào ao nuôi cá. Chúng tôi căn cứ vào sổ đỏ và thực tế hiện trạng để bồi hoàn cho đúng người, đúng giá trị”.
Sau khi ông Phước nhận đầy đủ tiền bồi hoàn và bàn giao mặt bằng cho Ban quản lý dự án thì ông Quách Thành khởi kiện ông Phước ra Tòa để đòi lại tiền công đào ao. Cả hai phiên tòa đều xử cho ông Quách Thành thắng kiện, buộc ông Phước phải hoàn trả hơn 200 triệu tiền công đào ao.
Điều khó hiểu từ hai bản án này là đã bỏ qua những điều khoản trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết như nêu ở trên. Đặc biệt, trong bản án phúc thẩm, căn cứ vào hai bút lục 26 và 29 để chiết tính giá trị công đào ao. Bút lục 26 là bản kê chi tiết bồi thường do Ban BTGPMB quận Ô Môn lập để bồi thường cho hộ ông Nguyễn Hữu Phước. Bút lục 29, theo bản án, là chiết tính bồi thường của Trung tâm Điện lực Ô Môn cũng tính thiệt hại cho hộ ông Nguyễn Hữu Phước.
Theo luật định thì bảng chiết tính của Ban BTGPMT mới được pháp luật công nhận. Hơn nữa, chúng tôi có trong tay bút lục 29 là một bản chiết tính do ông Nguyễn Văn Thành ký ngày 03/9/2008. Xác minh tại địa phương thì ông Nguyễn Văn Thành chết từ năm 2010, phiên tòa sơ thẩm xử ngày 11/02/2011, vậy bút lục 29 do ông Thành kê khai và ký nhận từ đâu mà có? Ông Thành là ai? Ông Thành có nghĩa vụ quyền lợi gì đến vụ án? Không có một ông Thành nào ra tòa làm chứng hay xác nhận rằng chữ ký trong bút lục 29 là của mình, thế mà cấp sơ thẩm vẫn căn cứ vào đó để xử án?
Phiên tòa phúc thẩm nhận định ông Quách Thành có hợp đồng với ông Võ Văn Dũng để đào ao, nhưng ông Dũng này là ông nào thì trong bản án cũng không thấy ghi địa chỉ thường trú, hay cũng là người có nghĩa vụ liên quan? Trong phiên tòa cũng không có mặt ông Dũng, hơn nữa hội đồng xét xử lại không đưa ra được hợp đồng đào ao giữa ông Dũng và ông Thành. Xác minh tại địa phương thì có đến hai ông Dũng nhưng cả hai là nông dân, không có máy móc gì và… họ chưa hề biết mặt ông Quách Thành!
Từ những khuất tất đó, dư luận cho rằng trong vụ án có chứng cớ ngụy tạo. Mang những khuất tất này đặt lên bàn Phó Chánh án TAND TP Cần Thơ Huỳnh Trung Hiếu – cũng là người chủ tọa phiên tòa- nhưng ông Hiếu từ chối tiếp với lý do “Đang bận công việc, nếu muốn tham khảo hồ sơ thì xin ý kiến Chánh án.” Chánh án Nguyễn Thanh Thiên sau khi nghe chúng tôi trình bày và đặt ra những khuất tất nêu trên thì hứa: Sẽ chỉ đạo cho bộ phận văn phòng tiếp để đối chiếu tư liệu. Đến nay, đó vẫn chỉ là lời hứa suông, còn bị đơn thì tâm không phục, khẩu ấm ức vác đơn khi khiếu nại khắp nơi…
Ngọc Long