1. Sáo ơi! Sáo à! Bà cứ hay gọi chiều như thế, nhất là những chiều bấc the thắt lên miệt đồng bưng. Hoàng hôn thẫm tím triền sông. Vệt nắng cuối ngày in hằn lên đôi mắt nua già đầy rẫy những vết xước của thời gian.
Non tháng nữa là Tết. Nước rút đồng sau một mùa dâng lai láng. Đám sầu đâu bên vườn nhà xạc xào theo từng ngọn gió. Lá nõn biêng biếc. Phía trong vườn nhà, ông lừng lững chui ra từ đám lá xanh hình liềm, mọc đối xứng, mép lá có răng cưa, vị đắng nhẫn.
Hình như ông cứ đợi bà gọi như thế, kiểu thành nếp rồi mới hề hà: “Sáo đây, sáo đây! Người dân xứ mình ưa hái những lá non xanh, hay những chùm hoa còn bum búp nụ, đem về trộn với khô cá sặc, ăn với mắm me thì thôi rồi nghen con. Ngon đến độ quên hết trời đất “.
Có bận ông nói với thằng cháu nhỏ, khi thấy nó mặt ửng đỏ lúc ăn phải món gỏi sầu đâu trứ danh của cái xứ tầm tang này. Vậy chớ bây nhai kĩ đi, chừng nuốt cái ực xuống cổ họng, sẽ thấy cái hậu ngọt đầm dịu mà hổng có loại lá nào sánh bằng.
Ông mê cái món gỏi sầu đâu này. Ông mê đến độ dù là những năm tháng chiến tranh, thỉnh thoảng mới được đơn vị cho dìa thăm nhà. Vậy mà cứ theo lệ, ông canh những mùa sầu đâu mà dìa. Thể nào cũng nằng nặc đòi ăn cái món này. Ăn ngấu ăn ngiến. Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi. Đằng này ông bén mùi gỏi sầu đâu mà tìm dìa. Mỗi mùa ông dìa, đâu chừng một hai đêm rồi đi, vậy là lòi ra một đứa. Những đứa con ngơ ngác, đôi khi hổng biết mặt cha gì ráo trọi. Đôi khi chưa gọi được cái tên cha, thì ông đi biền biệt.
2. Bà rầy hai Thương, giữa chạp rồi, sao bây hổng mua giấy màu về. Rồi “thằng ba Hoài đâu, uốn mớ tre mảnh cho má chưa. Chừng hổng kịp nghen. Thằng Tư Hòa nó khờ lắm bây à, nó ham chơi đi miết, chừng sẫm trời nghe đám bìm bịp kêu chiều mới chạy về. Cứ canh nhà nào có treo đèn lồng hoa giấy thì mới biết nhà mình. Thằng tánh kì. Hổng biết nhớ nhà là gì?”
“Để Sáo mua cho. Ngoại bây lại lẩn thẩn rồi” - ông vừa tuốt lá mai, vừa thủ thỉ cùng thằng cháu nhỏ. Hổng phải ông nói vậy cho qua chuyện đâu. Ông phải mua cho bằng được mớ giấy màu để bà làm đèn hoa giấy. Ngoại bây cái gì quên thì quên, chứ đèn hoa giấy thì hổng bao giờ quên.
|
Cái tập tục từ thời xa xưa của xứ mình, Tết nhứt hay nhà có cưới hỏi là phải treo đèn hoa giấy. Đèn xanh đỏ tím vàng, màu sắc vui mắt vậy để cầu một năm mới sung túc đủ đầy duyên may.
Hồi đó, bà làm đèn hoa giấy nổi tiếng nhất vùng. Đèn hoa giấy của bà đẹp, lại bền màu lắm. Xài năm ba mùa Tết mới phai lợt chút ít thôi. Giấy bà mua về, phết lên bề mặt màu một lớp dầu dừa, rồi đem phơi một con nắng đổ đồng. Giấy sẽ dai và lâu phai màu. Bà có đôi bàn tay khéo léo, uốn tre mảnh và cong theo từng tạo dáng của hoa, của lá. Rồi phải ngâm tre xuống nước sông, mượn cái phù sa mà ngâm đúng một con nước lớn ròng. Tre vì vậy mà có độ dẻo dai, thuận tay người uốn. Cứ thế, tiếng lành đồn xa. Mỗi bận chạp đi chừng quá nửa con trăng là bà lại đem đèn hoa giấy ra gốc sầu đâu đầu chợ làng mà bán.
Cũng tại cái gốc sầu đâu đó mà bà gặp ông. Năm đó ông mười tám, trong đợt về lính, ghé ngang gốc sầu đâu mà mua cặp đèn bông sen của bà. Thấy con nhỏ bán đèn mười sáu mà tiếng rao ngọt lịm. Ông mê mẩn cả người. Chỉ có ba ngày phép à. Mà ông đeo riết gốc sầu đâu. Chừng hết phép mới len lén người qua kẻ lại, dắm dúi vào tay bà chiếc khăn trắng thêu hình đôi chim sáo. Ông nói, hễ thấy con chim sáo nào nó bay theo bà, thì đó là ông nhớ thương mà tìm về.
Ông cứ canh mỗi độ con tu hú kêu mùa gió lạnh là tìm về gốc sầu đâu mà cù cưa với bà. Chừng hai năm sau thì xin phép đơn vị cho về cưới. Đám cưới thời chiến khổ tứ bề, vừa lo bom rơi đạn lạc. Vừa lo quen mùi nhớ miếng dăm hôm là phải chia xa. Một năm đôi ba bữa về thăm nhau đó đã là nỗi mừng khôn xiết.
Chiến tranh cuốn ông đi một quãng đời đăng đẳng. Mấy đứa con cứ thế lớn lên theo những ngày củ ấu củ lang, bo bo độn bắp, còn gạo thì lúc nào cũng sát rạt đáp khạp nghen. Rồi có đứa lại đòi thoát ly đi làm nhiệm vụ, bà cũng gật đầu cái rụp. Mỗi lần tiễn con đi, là mỗi lần thắt thẻo ruột gan. Đi là đi vậy thôi, chớ đừng hoài vọng trông mong ngày về. Khi bom đạn còn giày xéo khắp nơi như thế, thì cái ngày về nó mù khơi xa tít tắp.
Chiến tranh hay hòa bình, nói thì nghe đâu một cái rột liền miệng, nhưng đó là một quãng đời dài đớn đau với những xa xót và mất mát.
3. Hai lăm Tết, người ta đi giãy mả từ mờ sáng. Bà lại đong đưa cái võng bên hiên nhà, canh người qua kẻ lại ngang bờ rào mà í ới chào hỏi.
- Nay giãy sớm hen chị Tám, lát dìa ghé tui lấy cặp đèn treo Tết nghen!
- Anh Tư, nhớ thắp dùm cây nhang cho cô Bảy, nói cổ tui già rồi hổng lội ra thăm cổ được nghen!
Chừng hổng còn ai ngang cái bờ rào nữa, bà lại gọi: Sáo ơi! Sáo à!
“Sáo đây! Sáo đây! Sáo mới ra chợ mua mấy phong bao đỏ, đặng Tết nhứt lì xì tụi nhỏ nè! Ông đến ngồi kế bên cái võng. Hai mái đầu trắng nhìn những tia nắng vàng xuyên đám khiết bông đương thì trổ bừng sắc đỏ.Tết này Út làm đèn hoa giấy bông sen cho Sáo nghen! Chỉ Út làm Sáo mới ưng thôi hà!”
Bà cười móm mém trước câu vỗ về. Ông với tay đẩy nhẹ cánh võng. Bà lẩn thẩn nhớ quên những chuyện xưa xa. Nhưng ông thì vẫn cứ chìu bà tất thẩy. Có lần cậu năm Bình nói với ông. Má lẫn rồi tía ơi! Cứ nhắc mấy chuyện xưa xa, rồi nhắc tư Hòa, rồi gọi ba Hoài. Tía chìu riết má càng lẫn hơn.
Ông nhìn thằng con rồi hẫng nhẹ. Không khéo nói ra, bả lại khóc. Cái thằng tư Hòa của bả đã ra đi hồi đợt pháo kích dữ dội của mùa hè năm mười lăm tuổi rồi. Nó có về được đâu. Người ta cũng chỉ gởi về đúng cái giấy báo tử và cái túi đeo bả may bằng cái khăn rằn có thêu tên nó, vậy thôi à. Cái tui đeo giờ nằm trên bàn thờ rồi.
Còn thằng ba Hoài của bả à, đâu đó trên chiến trường Cam lận. Chẳng thứ gì về. Chỉ tờ giấy báo tử, cùng bức thư bạn chiến đấu kể lúc nó bị bắn chết, bọn địch lôi xác đi mất tiêu.
Những ngày đó, chiến trường khốc liệt lắm bây. Xứ này, người cứ ra đi rồi là đi hun hút. Có khi quay về, chỉ là cái áo, hoặc may mắn thì có thêm được dăm ba món đồ. Gọi là kỉ niệm. Đời má bây, toàn thờ kỉ niệm mà thôi.
Chiến tranh nó nghiệt ngã quá đỗi, nên giờ mà nhắc lại, thì chẳng khác nào khơi thêm một cuộc chiến trong chính lòng mình. Cứ nhẹ nhàng thanh thản như vậy, cho bả sống với cuộc đời lẩn thẩn nhớ quên này, âu cũng là an yên tuổi xế bóng đường tà. Bả đâu còn bao nhiêu cái Tết!
4. Gần tết, chợ làng bắt đầu xôm tụ với nhiều thứ hàng hóa được chở từ Sài Gòn về buôn bán. Sáng sớm tinh mơ, đã nghe tiếng đãi bôi cò kè bớt một thêm hai rân trời. Loa của xã thông báo có đoàn tặng quà Tết sẽ về ghé thăm mấy gia đình chính sách. Nghe đâu chừng tiếng nữa họ ghé thăm ông bà. Năm nào nhà cũng được cho biết bao nhiêu là thứ quà tết. Hết đoàn cựu chiến binh ghé, tới đoàn phụ nữ, đôi khi có những đoàn từ thiện cũng tạt ngang.
Những ngày đó, ông bà lại vui lạ thường. Ông kể ron rót mấy chuyện xưa cũ, chừng như níu chân các đoàn ghé thăm quá vãng cả buổi trời mới chịu cho về. Chuyện Trường Sơn đỏ lửa. Chuyện đi ngang hang Vọng nghe tiếng xin cây lược của mấy cô thanh niên xung phong hồi ấy, hơn chục cô gái thanh tân, nằm lại mãi mãi trong hang, sau đợt càn của địch. Chuyện ông trở về sau cuộc chiến nhưng hai đứa nhỏ thì nằm lại mãi mãi với đồng đội.Chuyện ông thương bà như hồi còn son. Bà vẫn cứ là Út trong lòng của Sáo sau bao biến chuyển thời cuộc.
Bà tiễn mọi người ra tận bờ rào, dúi vào tay mỗi người một cái đèn hoa giấy. Ngày tư ngày Tết treo cái lồng đèn hoa giấy cho nó có không khí ngen mấy cô mấy chú. Ngộ là khi ấy, bà tỉnh rụi, chẳng khóc, chẳng tiếc nuối về hai thằng con. Vẻ mặt ánh lên tự hào rất đỗi. Bà thương con lắm chứ, rứt ruột đẻ ra mà. Nhưng tàn cuộc chiến rồi, quá khứ cũng phải ngủ yên. Đời bà may vẫn còn có ông. Vậy là mừng rồi mấy cô mấy chú ơi. Tết bây giờ vẫn là vui hơn Tết xưa. Trọn vẹn hay không trọn vẹn đâu quan trọng bằng cái cảm giác đón tết yên bình ngay trên chính xứ quê mình hen.
5. Hai chín Tết, đường quê rợp sắc màu hoa lá tươi mới. Má dọn nhà cửa đón gia đình cậu năm Bình từ Sài Gòn dìa ăn tết với ngoại như thông lệ hằng năm. Má chưng dưa hấu lên bàn thờ. Xếp hộp mứt gừng mứt bí, mấy món bánh kẹo được làm từ dừa, từ chuối.
Sớm tờ mờ ông đã đi cắt lá dong để tối gói bánh tét. Chiều chạng vạng đã nghe tiếng í ới của gia đình cậu năm Bình ngoài bờ rào. Đường xá xe cộ kẹt rần rần. Ai cũng tay xách nách mang, lỉnh kỉnh đủ thứ đồ về quê ăn Tết. Thấy nao nức gì đâu! Mợ năm vừa khỏa nước rửa mặt trên bến sông sau nhà, vừa hồ hởi kể chuyện cho cả nhà nghe.
Rồi mọi người quây quần bên mâm cơm chiều, mùi mắm kho dậy cả chái bếp sau. Lần nào về quê, vợ chồng cậu năm cũng đòi ăn mắm kho. Món ruột xứ mình mà. Về xứ mắm phải ăn mắm, rồi nghe tía hát. Tía ưa hát cái câu nịnh má đó chị. Tía hát lại đi tía. “Con cá làm ra con mắm, vợ chồng già thương lắm mình ơi!” Cậu năm Bình bắt chước giọng điệu của ông, cả bàn ăn cười rần rần.
Ông cũng cười, gắp bỏ vào chén cơm của bà miếng mắm kho. Già tía tụi bây nghen! Ổng dạy tụi bây hư hết à! Bà lườm ông, bà nguýt cậu năm. Bữa cơm chiều kéo dài đến tối trời.
Trăng cuối chạp vặt cao lên ngọn sầu đâu. Phía nhà trước, má với mợ năm bắt đầu bày nếp bày lá ra gói bánh. Cậu năm đặt gạch kê lò, lúi húi chụm lửa, cứ chạy ra chạy vào đòi bánh, khi nồi nước bắt đầu réo rắt.
Bà lại bày giấy màu, tre mảnh ra ngồi dạy mấy đứa cháu nhỏ làm đèn hoa giấy. Chỉ khi làm đèn bà mới nhớ rõ mồn một cái nghề như chính phận đời của mình. Ông vừa dán giấy vừa nhìn ánh mắt sáng ngời tươi trong của bà.
- Ủa chớ cô gì ơi, cho qua hỏi thăm cái này, hỡi cô bán đèn giấy hồng, đèn hồng cô bán, má hồng cô bán chăng?
- Má hồng hãy hỏi song thân, em đây chỉ bán cho anh đèn hồng.
Tiếng hát đối của ông bà lại thêm một phen náo động căn nhà. Giọng bà chẳng còn trong vắt ngọt lịm như hồi xưa, nhưng ông vẫn thương. Như có lần ông nói, thương bà thì dù bà lẩn thẩn nhớ quên, hay đã vàng phai xế bóng, thì cái thương của ông lại càng đầy đặn theo năm tháng, như cái câu ca ông vẫn thường hát nịnh bà. Mà ông chẳng hát để chơi. Ông hát, là hát cho tụi con cháu nghe. Cứ lấy cái hình ảnh của ông bà, mà sống sao cho quanh năm suốt tháng, bốn mùa thì vẫn là xuân.
Thằng cháu nhỏ, bắt ghế treo mấy cái lồng đèn hoa giấy lên cao. Bấc thổi mấy cánh sen hồng đong đưa, thấy Tết đã về bên hiên nhà.
Truyện ngắn của Trúc Thiên