Ngày 27/8, TAND TP Hà Nội đưa bị cáo Đỗ Minh Tâm (SN 1977, ở quận Đống Đa, Hà Nội, cựu Cục phó Cục Quản trị 1 – Văn phòng Quốc hội) và Nguyễn Thế Phùng (SN 1987, ở quận Ba Đình, Hà Nội) ra xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị hại trong vụ án là 2 người, trong đó có doanh nhân quốc tịch Lào.
Theo cáo trạng, Tâm và Phùng không có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc mua đất để xây dựng dự án và quyết định cho người khác được tại ngoại hoặc không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, để người khác tin tưởng giao tiền cho mình, cả hai đưa ra các thông tin gian dối là bản thân có nhiều quan hệ với lãnh đạo thành phố, đưa người khác thăm nơi công tác của bản thân, thể hiện việc mình có khả năng giúp người khác mua đất, xin tại ngoại, không bị xử lý hình sự.
Tài liệu điều tra thể hiện, một doanh nhân người Lào có tên Việt Nam là Pha có quen biết anh Đàm Đức C (ở TP.HCM). Ông Pha muốn đầu tư xây dựng một tòa nhà hữu nghị Việt – Lào tại Hà Nội nên nhờ anh C giúp. Thông qua người quen của anh C, ông Pha được giới thiệu gặp Tâm và Phùng.
Khi gặp, Tâm nói với ông Pha, bản thân có mối quan hệ với lãnh đạo TP Hà Nội. Tâm giới thiệu trụ sở và vị trí làm việc của mình với ông Pha. Tâm và Phùng đưa ông Pha đến xem khu đất khoảng 10.000m2 và 9.400m2 gần tòa nhà Keangnam, nói sẽ giúp ông Pha mua được 2 mảnh đất trên để đầu tư xây dựng 2 tòa nhà kết hợp văn phòng cho thuê.
Tâm yêu cầu ông Pha phải đưa tiền chi phí là 6% tổng chi phí thực tế dự án và phải đưa trước 1,8 triệu USD. Tâm còn đưa ông Pha vào tòa nhà Quốc hội để ông Pha tuyệt đối tin tưởng mình. Tâm nói mình đang làm việc cho cơ quan nhà nước nên không thể trực tiếp làm việc và nhận tiền từ ông Pha nên Phùng là người ký kết hợp đồng và nhận tiền thay cho Tâm.
Do tin tưởng Tâm và Phùng, ngày 10/11/2019, vị doanh nhân trên đã dùng Công ty do mình làm chủ tịch, ký hợp đồng dịch với ông Nguyễn Thế Phùng để được tư vấn, hỗ trợ công ty xin được chấp thuận, giấy phép và liên hệ làm việc với cơ quan chức năng tại Việt Nam để đầu tư các dự án tại 2 lô đất trên. Nội dung hợp đồng nêu rõ công việc phải thực hiện và số tiền phải giao, thời hạn thực hiện hợp đồng là 6 tháng, tính từ ngày nhận tiền.
Sau đó, ông Pha giao cho nhân viên đưa tiền cho Phùng. Trước mỗi lần giao tiền, nhân viên của ông Pha đều gọi điện cho Tâm biết. Tâm điện thoại báo Phùng đến địa chỉ hẹn gặp.
Từ ngày 13/11/2019 đến ngày 29/11/2019, nhân viên của ông Pha đã giao 6 lần giao tiền, tổng số 1,8 triệu USD (tương đương hơn 41,6 tỷ đồng). Khi giao tiền, Phùng có ký vào giấy biên nhận tiền, sau đó giao lại toàn bộ cho Tâm. Tâm đưa cho Phùng số tiền 396.000 USD.
Quá thời hạn cam kết, Phùng và Tâm không thực hiện theo hợp đồng. Đến ngày 16/12/2021, Phùng mới trả lại 130.000 USD, còn chiếm đoạt 1,67 triệu USD.
Vào tháng 5/2022, ông Pha ủy quyền để tố giác hành vi của Phùng và Tâm. Quá trình điều tra, đến nay, Phùng và Tâm đã hoàn trả lại cho ông Pha toàn bộ số tiền trên.
Ngoài ra, Phùng còn có hành vi chiếm đoạt 2,7 tỷ đồng của chị Lê Thị H. (ở Hà Nội). Theo cáo trạng, thông qua các mối quan hệ, chị H. nhờ Tâm xin tại ngoại cho 2 trường hợp bị bắt, tạm giữ về hành vi cướp tài sản.
Khi gặp nhau, Phùng nói sẽ giải quyết cho 2 trường hợp trên được tại ngoại, yêu cầu chị H. phải đưa 3,8 tỷ đồng. Chị H. đã chuyển cho Phùng 2,7 tỷ đồng. Sau 3 ngày không thấy công việc theo cam kết nên chị H. gọi điện thì Phùng báo tiếp tục chờ.
Đến ngày 3/6/2021, chị H. yêu cầu Phùng trả lại tiền. Đến nay, Phùng mới khắc phục một phần, còn chiếm đoạt 1,15 tỷ đồng. Do chị H. bị bắt trong vụ án khác nên Phùng đã trả lại tiền. Hiện Phùng đã trả cho bị hại 2,45 tỷ đồng.
Đưa vụ án ra xét xử, HĐXX TAND TP Hà Nội quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, làm rõ một số nội dung của vụ án. Tuy nhiên, HĐXX không nói rõ những nội dung cần điều tra bổ sung/.