Xóa án tích là một chế định quan trọng, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ Xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Với sự ra đời của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về trường hợp người bị kết án đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, góp phần giúp họ không bị mặc cảm trong quá trình hòa nhập cộng đồng.
|
Quy định mới giúp người từng bị kết án không bị mặc cảm (Hình: Trao quyết định đặc xá cho phạm nhân tại một trại giam) |
Gian nan theo quy định cũ
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì việc xóa án tích được chia làm hai loại là đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án. Bên cạnh đó, còn có xóa án tích trong trường hợp đặc biệt là khi người bị kết án có những tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị thì có thể được Tòa án xóa án tích nếu người đó đã đảm bảo ít nhất 1/3 thời hạn quy định.
Người đã được xóa án tích được coi như chưa can án (không có tiền án) và không phải tiếp tục gánh chịu bất cứ hậu quả nào do việc kết án mang lại. Nghĩa là kể từ thời điểm được xóa án tích, họ trở thành người hoàn toàn bình thường về mặt tư pháp và không ai có thể căn cứ vào sự kiện họ đã bị kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi đã được xóa án tích, mọi giấy tờ liên quan đến căn cước, lý lịch của họ đều được ghi là “không có án tích” và nếu người đó lại phạm tội mới thì cũng coi như phạm tội lần đầu.
Nhưng thủ tục xóa án tích trong các trường hợp này đều rất phức tạp. Ví dụ dù thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, song nếu cần cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì người bị kết án phải làm đơn (theo mẫu) gửi Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án, kèm các tài liệu (như giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp, giấy xác nhận của thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khoản bồi thường, án phí, tiền phạt, giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an quận, huyện nơi người bị kết án thường trú cấp, bản sao hộ khẩu, bản sao chứng minh nhân dân). Nếu xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, ngoài các loại tài liệu trên, phải có thêm văn bản đề nghị của chính quyền, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án thường trú, công tác.
Về trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa thì Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội được quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án. Vất vả hơn nữa là nếu người bị kết án làm đơn xin xóa án tích mà bị Tòa án bác đơn lần đầu sẽ phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích. Nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.
Có điều, việc xóa án tích đương nhiên lại phải được chứng minh trực tiếp bằng Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án. Điều đó đã làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của việc xóa án tích. Bởi dẫu sao thì các cơ quan, tổ chức cũng như cộng đồng biết rằng về thực chất đương sự vẫn là người có án.
Quy định nhân đạo trong luật mới
Luật Lý lịch tư pháp ra đời đã khắc phục những khiếm khuyết nêu trên. Có thể kể ra đây một vài trường hợp như sau.
Cuối năm 1999, TAND Tp. Hồ Chí Minh xử phạt ông Nguyễn Văn Thành bốn năm tù giam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN. Ông Thành đã chấp hành xong hình phạt tù giam năm 2000 (có giấy chứng nhận đặc xá tha tù trước thời hạn do trại giam cấp), đã thi hành xong phần án phí (có văn bản xác nhận thi hành án của Cục Thi hành án dân sự); và theo xác nhận của UBND phường nơi ông cư trú thì từ ngày chấp hành xong hình phạt tù đến này (tức là đã qua hơn 10 năm), ông Thành chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước, chưa phát hiện vi phạm gì.
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 64 Bộ luật Hình sự, trường hợp của ông Thành đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích nên dù chưa nhận được Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án, Sở Tư pháp vẫn cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho ông Thành với nội dung xác nhận “không có án tích”.
Một trường hợp khác là ông Nguyễn Công Nguyên bị Tòa án quân sự quận 3, Tp. HCM xử phạt 20 năm tù giam về tội cướp tài sản (bản án này đều không còn lưu giữ tại các cơ quan Tòa án, Công an, Trại giam); đã chấp hành xong hình phạt tù từ cuối năm 1987 và kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù đến nay không phạm tội mới. Theo quy định tại Điều 7 và Điều 64 Bộ luật Hình sự, ông Nguyên cũng thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích nên Sở Tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp với nội dung xác nhận “không có án tích”.
Đây chỉ là hai trong số nhiều trường hợp được xác nhận “không có án tích” một cách thuận lợi theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Cụ thể, Điều 33 Luật Lý lịch tư pháp và Điều 17 Nghị định 111/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đã giao Sở Tư pháp trách nhiệm chủ động xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án. Trường hợp Lý lịch tư pháp do Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia lập thì Trung tâm này tiến hành xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án.
Có thể nói, việc Luật Lý lịch tư pháp quy định xóa án tích được chứng minh bằng Phiếu lý lịch tư pháp có ý nghĩa quan trọng vì không ai biết là đương sự đã từng can án hay chưa. Không những thế, cách làm này hiện nay rất có tác dụng trong việc tạo điều kiện cho người bị kết án tái hoà nhập cộng đồng, không bị mặc cảm bởi quá khứ tội lỗi của mình và không bị cộng đồng phân biệt đối xử.
(Tên người lấy dẫn chứng trong bài đã được thay đổi)
Trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng chưa nhận được Giấy chứng nhận xóa án tích của Tòa án thì Sở Tư pháp tiến hành xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện như sau:
a) Sở gửi văn bản yêu cầu xác minh hoặc trực tiếp xác minh tại UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là UBND cấp xã), cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án;
b) Quá trình xác minh tại UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết, Sở thực hiện xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan về việc người bị kết án có đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hay không.
(Trích Điều 17, Luật Lý lịch tư pháp)
|
Công Thành