Xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước: Bảo đảm quyền lợi của đối tượng bị tác động sau sáp nhập

(PLVN) -  Sáng 14/2, tiếp tục chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến xác đáng nhằm hoàn thiện dự thảo Nghị quyết.

Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Đoàn TP Huế): Cần có cơ chế đặc thù riêng ở hoạt động tố tụng

Về nguyên tắc xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước tại Điều 2, khoản 1, đề nghị bổ sung từ “doanh nghiệp” sau cụm từ “của người dân” ở cuối khoản này để thống nhất và phù hợp với định hướng, nguyên tắc khi sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước không làm gián đoạn hoạt động của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chúng ta.

Văn bản, giấy tờ đã được cơ quan, người có thẩm quyền ban hành cấp tại Điều 10 khoản 1, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung từ “thi hành” vào sau từ “sử dụng” và trước cụm từ “theo quy định pháp luật cho đến khi hết thời hạn”. Vì trong thực tế, nhất là đối với các trường hợp cưỡng chế, khi cơ quan cũ ban hành quyết định cưỡng chế thì cơ quan mới gặp nhiều lúng túng trong việc tổ chức thực hiện quyết định của cơ quan cũ do vị trí, vai trò của cơ quan ban hành có sự điều chỉnh khác nhau.

Về hiệu lực thi hành tại Điều 15, tán thành đối với thời gian Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/3/2025. Tuy nhiên, đối với lực lượng công an, hiện nay lực lượng công an đang thực hiện không tổ chức công an cấp huyện. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật về hình sự, lực lượng công an là cơ quan trực tiếp đầu tiên thực hiện hoạt động tố tụng. Nếu Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/3 thì thời gian còn rất ngắn để các cơ quan Viện, Tòa thực hiện công việc tiếp theo và sẽ khó có sự điều chỉnh phù hợp với việc giải thể công an cấp huyện. Vì vậy, đề nghị đối chiếu đối với hiệu lực Nghị quyết cần có cơ chế đặc thù riêng ở hoạt động tố tụng để phục vụ cho hoạt động tố tụng.

Đại biểu Trần Nhật Minh (Đoàn Nghệ An): Đề nghị quy định Nghị quyết có hiệu lực thi hành ngay

Về hiệu lực thi hành của Nghị quyết, tôi tán thành với đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, đề nghị quy định nghị quyết này có hiệu lực thi hành ngay từ khi Quốc hội thông qua để tạo cơ sở pháp lý càng sớm càng tốt cho các cơ quan từ Trung ương đến địa phương thực hiện việc sắp xếp và chuyển giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sẵn sàng đi vào hoạt động ngay từ thời điểm có quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Hiện nay, để thực hiện nhiệm vụ quyết định thành lập, bãi bỏ cơ quan chuyên môn thuộc UBND theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp huyện phải ban hành các nghị quyết. Nhưng xét về căn cứ pháp lý các nghị định của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện vẫn còn hiệu lực pháp luật, chưa được sửa đổi, bổ sung theo mô hình tổ chức bộ máy mới. Do đó, nếu thời điểm hiệu lực của Nghị quyết này là ngày 01/3/2025 như dự thảo là muộn, chưa đáp ứng được mục đích xây dựng Nghị quyết là việc ban hành Nghị quyết nhằm tạo cơ sở pháp lý, thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước từ Trung ương và địa phương.

Hơn nữa, việc quy định hiệu lực sớm của Nghị quyết cũng phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18 của Chính phủ về việc bổ sung, hoàn thiện phương án sắp xếp, tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện tại Công văn số 05 ngày 12/1/2025. Theo đó, trong phần triển khai thực hiện, Ban Chỉ đạo cũng yêu cầu bảo đảm ngay sau khi bế mạc kỳ họp Quốc hội, Tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh công bố các quyết định về tổ chức bộ máy, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện để hoạt động ngay, không có khoảng trống pháp lý liên tục, hiệu quả, hiệu lực.

Đại biểu Trần Văn Khải (Đoàn Hà Nam): Cần bảo đảm quá trình chuyển đổi diễn ra thật suôn sẻ

Tôi đánh giá rất cao cơ quan soạn thảo cũng như cơ quan thẩm tra đã có một dự thảo hết sức hoàn chỉnh, toàn diện, bao quát được rất nhiều vấn đề trong bối cảnh triển khai cuộc cách mạng rất nhanh và rất khẩn trương.

Cá nhân tôi quan tâm đến Điều 4 của dự thảo Nghị quyết quy định “Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước”. Tuy nhiên, một số điểm trong điều này còn những hạn chế lớn, cần làm rõ để bảo đảm quá trình chuyển đổi diễn ra thật suôn sẻ.

Tôi xin phân tích 4 hạn chế ở trong Điều 4. Thứ nhất là chưa có quy định rõ quy trình bàn giao công việc đang xử lý, chỗ này quy định ở khoản 5 Điều 4. Vấn đề đặt ra là quy định khá chung chung, không có hướng dẫn chi tiết về quy trình bàn giao, không có cơ chế kiểm soát hồ sơ, thủ tục đang xử lý có bị trì hoãn hoặc thất lạc hay không và dễ dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa cơ quan cũ và cơ quan mới.

Giải pháp tôi đề xuất như sau: Một là, yêu cầu cơ quan lập danh sách hồ sơ công việc đang xử lý trước khi bàn giao, danh sách cần bàn giao, gồm trạng thái xử lý của từng công việc, xác định rõ cơ quan, cá nhân chịu trách nhiệm xử lý từng công việc còn tồn đọng.

Hai là, quy định về thời gian bàn giao hồ sơ cụ thể. Ví dụ trong vòng 30 ngày kể từ ngày quyết định sắp xếp có hiệu lực thì toàn bộ hồ sơ phải được bàn giao, hồ sơ chưa hoàn tất phải kèm theo hướng dẫn cụ thể để tiếp tục thực hiện.

Ba là, thiết lập hệ thống giám sát công việc bàn giao.

Tôi đề nghị Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá tiến độ bàn giao hồ sơ giữa các cơ quan. Cơ quan tiếp nhận có quyền yêu cầu cơ quan cũ cung cấp tài liệu bổ sung (nếu cần).

Hạn chế thứ hai là chưa có cơ chế xử lý trách nhiệm đối với công việc bị gián đoạn khi chuyển giao. Khoản 5 Điều 4 đặt ra là nếu công việc bị chậm trễ do sắp xếp tổ chức không có cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng, không có quy định trách nhiệm cá nhân khi để hồ sơ, thủ tục bị chậm trễ hoặc thất lạc. Một số trường hợp phức tạp có thể cần cơ quan cũ hỗ trợ nhưng dự thảo chưa có cơ chế yêu cầu cơ quan cũ tiếp tục hỗ trợ trong thời gian chuyển đổi.

Giải pháp đề xuất của tôi: Một là, ràng buộc trách nhiệm cá nhân trong quá trình chuyển giao công việc, trước khi sáp nhập lãnh đạo cơ quan phải phê duyệt danh sách công việc đang xử lý và phân công người phụ trách.

Hai là, nếu có sai sót trong chuyển giao, cá nhân phải chịu trách nhiệm và bị xem xét kỷ luật theo quy định.

Đồng thời, bổ sung quy định về việc cơ quan cũ hỗ trợ xử lý công việc trong thời gian quá độ. Ví dụ như trong 6 tháng sau khi sắp xếp tổ chức, cán bộ từ cơ quan cũ phải có trách nhiệm hỗ trợ giải quyết hồ sơ công việc ở cơ quan mới, tránh tình trạng cơ quan cũ phủi tay sau khi sáp nhập.

Ba là, xây dựng cơ chế khiếu nại (nếu có bất cập trong bàn giao), nếu tổ chức, cá nhân ảnh hưởng do công việc bàn giao chậm trễ, họ có thể gửi khiếu kiện đến Bộ Nội vụ hoặc UBND cấp tỉnh để giải quyết, nên có cơ chế cho việc này.

Hạn chế thứ ba là chưa có cơ chế xử lý các văn bản pháp lý chưa hoàn tất. Vấn đề đặt ra là nhiều văn bản pháp lý đang trong quá trình ban hành thì có thể bị ảnh hưởng do thay đổi cơ quan chủ trì, một số văn bản cũ có thể bị lỗi do thay đổi cơ quan nhưng lại chưa được sửa đổi ngay, chưa có cơ chế ưu tiên xử lý nhanh các văn bản chịu tác động từ quá trình sắp xếp.

Tôi đề xuất như sau: Một là, xây dựng danh mục các văn bản cần sửa đổi trước khi thực hiện sắp xếp tổ chức. Mỗi Bộ, ngành phải rà soát danh sách các văn bản trong quá trình soạn thảo hoặc đã ban hành nhưng chịu tác động sắp xếp bộ máy. Bộ Tư pháp chủ trì việc điều chỉnh các văn bản này.

Hai là, áp dụng quy trình sửa đổi văn bản nhanh, cho phép sử dụng quy trình sửa đổi, rút gọn đối với các văn bản pháp lý bị ảnh hưởng trực tiếp do quá trình sắp xếp.

Ba là, quy định cụ thể thời gian hoàn tất các văn bản sửa đổi. Ví dụ toàn bộ văn bản cần sửa đổi phải được hoàn tất trước ngày 28/2/2027 để phù hợp với thời gian thực hiện Nghị quyết.

Hạn chế thứ tư là chưa có quy trình xử lý các vụ việc hành chính, tố tụng dở dang. Vấn đề đặt ra là các vụ việc hành chính hoặc tố tụng dở dang có thể gặp gián đoạn do thay đổi cơ quan chủ trì, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan mới cho các vụ việc đang xử lý.

Giải pháp đề xuất của tôi: Một là, yêu cầu cơ quan cũ lập danh sách các việc hành chính, tố tụng đang xử lý, bàn giao chi tiết cho cơ quan tiếp nhận.

Hai là, Bộ Nội vụ giám sát việc chuyển giao này và báo cáo lên Chính phủ.

Ba là, quy định thời gian xử lý tiếp nối, tránh tình trạng hồ sơ bị đình trệ. Ví dụ, cơ quan tiếp nhận phải tiếp tục xử lý trong vòng 30 ngày từ khi tiếp nhận.

Đại biểu Nguyễn Minh Đức (Đoàn TP Hồ Chí Minh): Có khoản quét đề cập đến quyền của những người không đủ điều kiện theo quy định

Chúng tôi thấy có một vài điểm xin góp ý để có thể tính toán thêm. Đó là vấn đề về tài sản, xử lý tài sản sau sáp nhập. Trước đây chúng ta có việc sáp nhập các cơ quan hành chính ở đơn vị cấp xã, cấp huyện, các địa phương đã có những vấn đề vướng mắc và đây là một cuộc sáp nhập rất lớn, khối lượng tài sản rất lớn và trong nghị quyết của chúng ta đã tính toán đến. Ở đây chúng ta thấy rằng hiện nay đang có Nghị định 151/2017/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Nghị định 114/2024/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 151/NĐ-CP năm 2017; và mới nhất là Nghị định 03/2025/NĐ-CP quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công là nhà, đất nhưng chúng tôi thấy vẫn chưa đủ để bao chứa hết. Ví dụ những tài sản được hình thành trong tương lai nằm trong các dự án và các đề án do các chủ đầu tư của các cơ quan đang chịu sự sáp nhập này. Chúng tôi cho rằng cũng phải tính toán đến để đảm bảo sao tài sản xử lý được hợp lý và làm rõ trách nhiệm.

Về cơ cấu, tổ chức và con người bị tác động sau sáp nhập. Hiện nay chúng ta có Nghị định 177, 178 và Thông tư 01 năm 2025 về vấn đề giải quyết chế độ cho những người có nguyện vọng về hưu để thực hiện cuộc sắp xếp này, tôi cho là rất tốt. Nhưng còn một bộ phận là những người lao động trong các cơ quan chịu sự sáp nhập và chịu sự kết thúc là không đủ các điều kiện thỏa mãn trong Nghị định 177/2024/NĐ-CP, Nghị định 178/2024/NĐ-CP, cũng như Thông tư 01 của Bộ Nội vụ và trong khoản 3 Điều 2 của dự thảo Nghị quyết nêu rõ là bảo đảm các quyền con người thì chúng ta có một khoản quét nào đó để đề cập đến quyền của những người này nhằm thể hiện rất rõ tính bao quát của chúng ta trong Nghị quyết của Quốc hội.

Đọc thêm