Nhằm đảm bảo tính ổn định của các quan hệ xã hội, đồng thời đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong hoạt động thi hành án, Điều 21 Pháp lệnh THADS năm 1993; Điều 25 Pháp lệnh THADS năm 2004 và Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật THADS) đều có quy định về vấn đề thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Theo khoản 5 Điều 3 Luật THADS thì thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án theo quy định của Luật THADS.
Theo Điều 30 Luật THADS, trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn… Trong trường hợp thi hành án theo yêu cầu (khoản 1 Điều 36 Luật THADS) thì khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án cả người được thi hành án và người phải thi hành án đều không có quyền yêu cầu thi hành án nữa (trừ các trường hợp không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án do pháp luật quy định).
Riêng đối với trường hợp người phải thi hành án là phạm nhân, khoản 6 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định về trường hợp phạm nhân là người phải thi hành án, thân nhân của họ hoặc người được họ ủy quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện nộp tiền, tài sản thi hành án khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì cơ quan THADS không ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án mà chỉ ra quyết định thi hành án tương ứng với khoản tiền, tài sản họ tự nguyện nộp, đồng thời lập biên bản ghi rõ lý do, số tiền, tài sản do phạm nhân là người phải thi hành án, người được ủy quyền hoặc thân nhân của họ nộp và thông báo cho người được thi hành án đến nhận.
Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà người được thi hành án không đến nhận tiền, tài sản thì cơ quan THADS làm thủ tục sung quỹ nhà nước, sau khi khấu trừ tiền, tài sản mà họ phải thi hành theo quyết định thi hành án khác, (nếu có).
Quy định về phương án xử lý trong trường hợp phạm nhân là người phải thi hành án, thân nhân của họ hoặc người được họ ủy quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện nộp tiền, tài sản khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án là một quy định rất tiến bộ, đã tạo điều kiện cho người phải thi hành án có thêm cơ hội để thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm của mình và cũng để tạo điều kiện cho người phải thi hành án được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước trong các đợt xét giảm án hình sự.
Tuy nhiên, ngoài các trường hợp người phải thi hành án là phạm nhân, cũng có những trường hợp người phải thi hành án vì những lý do khác nhau muốn thi hành nghĩa vụ thi hành án của mình sau khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì pháp luật THADS lại chưa có cơ chế để giải quyết.
Điều 9 Luật THADS quy định “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án”. Do đó, trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận của đương sự đồng thời nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án, có thể xem xét tách riêng quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án và người được thi hành án.
Đối với người được thi hành án có thể quy định giữ nguyên thời hiệu yêu cầu THADS là 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; còn đối với người phải thi hành án có thể xem xét không quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án. Bởi vì quy định này không chỉ làm lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án mà còn làm cho bản án, quyết định được thi hành một cách triệt để, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.