Ám ảnh tiếng hát người phụ nữ Mông

(PLVN) - Nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Tiến cho biết tuy rằng anh không còn viết về “du ca của người Mông” nhưng tiếng hát của người phụ nữ Mông luôn ám ảnh anh bởi sự buồn bã, cô đơn..
Phụ nữ Mông trong các chợ phiên. (Ảnh minh họa: Internet)

“Những đỉnh núi du ca - một lối tìm về cá tính H’Mông” là công trình nghiên cứu về tộc người Mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến. Anh đã tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn. Trong cuốn sách này có một chương: Tiếng hát làm dâu - thân phận người phụ nữ Mông trong cấu trúc xã hội tộc người. Phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam đã phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tiến để làm rõ hơn nội dung này.

Theo anh, sự thiệt thòi trong hôn nhân của phụ nữ Mông có khác nhiều với phụ nữ người Kinh?

- Phụ nữ Mông vẫn quá nhiều thiệt thòi trong vị trí gia đình, dù không phải là tất cả. Vẫn có đó niềm ấm êm khi được anh chồng tốt, chồng hiền. Nhưng nhiều trường hợp sự nam quyền tỏ ra ác nghiệt.

Ở người Mông, gia đình một vợ một chồng là phổ biến, và rất ít khi ly dị. Hình ảnh người đàn ông Mông say rượu nằm bên vệ đường, người vợ ngồi cạnh đời chồng tỉnh, hoặc anh chồng nằm vắt ngang trên lưng ngựa, người vợ nắm đuôi ngựa, đi bộ theo sau chậm rãi, trở về sau phiên chợ tan trong ánh chiều tà đang lặn dần sau những dãi núi cao hẳn còn in trong tâm trí nhiều người về cái ấm êm gia đình vùng cao. Nếu chồng chết, người phụ nữ Mông có thể lấy em chồng hoặc ở vậy… Dân ca Mông khắc hoạ rất sâu và sống động nỗi khổ ải của kiếp làm dâu. Vì xuất phát từ việc trọng trai khinh gái, nhiều bậc sinh thành Mông sẵn sàng “tham thúng xôi vò, tham con lợn béo, tham vò rượu tăm (như người Việt) mà gả bán con: “Bởi vì cha mẹ em tham con trâu mộng đuôi trắng, vứt tuột em đi không cần ngắm chủ…” (Bùi Lan, Mạc Phi 1964) hay “Cha mẹ đã nhận tiền của họ, con không đi cha mẹ vác dao xả thịt, cha mẹ đã uống rượu của người, con không đi cha mẹ cầm roi đánh đuổi (Doãn Thanh 1984).

Vậy trong hoàn cảnh khốn khó đó, có nhiều phụ nữ Mông sẽ tìm lối thoát ra sao?

- Trong một nghiên cứu về bạo lực gia đình của hai tác giả Đặng Thi Hoa - Phạm Thị Kim Oanh ở người Mông tại Bắc Hà (Lào Cai) và Mộc Châu (Sơn La) cho biết qua khảo sát 400 hộ dân thì không có hộ nào kết hôn ngoài tộc người Mông. Trong đó, nổi lên vấn đề tự tử do mâu thuẫn gia đình là khá nhiều, chỉ trong năm 2005 có tới 13 vụ tự tử chết người, trong đó có 4 trường hợp do ăn lá ngón. Dù thế, người phụ nữ Mông không có thói quen ly dị nên cam chịu chấp nhận.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Tiến. (Ảnh: PV)

Chính điều này lý giải một phần cho lý do vì sao dân ca làm dâu Mông lại cất lên đầy ai oán, bởi thân phận đau khổ của người phụ nữ bị đánh đập, hành hạ. Nhìn chung lại, những gì phản chiếu lại từ dân ca làm dâu của người Mông về cơ bản, thấy nổi lên một bầu không khí thật ảm đạm, đầy khổ não trong kiếp làm dâu của người phụ nữ - “Năm nay em đi làm dâu, thân khác gì thân trâu mang đeo ách” (Doãn Thanh 1984).

Vậy đâu là điểm sáng của người con gái Mông khi đi làm dâu?

- Người phụ nữ Mông vẫn có quyền hợp pháp giữ cho mình một tài sản kinh tế, bao gồm toàn bộ “tiền vốn” là “của hồi môn” khi lấy chồng mà cha mẹ đã cho. Đồng thời, trong gia đình người Mông, dù khốn khó thế nào, bao giờ cũng gắng chừa ra một mảnh đất tốt để người phụ nữ con dâu trồng lanh.

Mảnh đất ấy thuộc quyền cô dâu, và đương nhiên, vải vóc làm ra từ dệt lanh là nguồn lợi được công nhận toàn quyền sử dụng của người vợ, người con dâu trong gia đình. Khu vườn nhỏ bé đó vẫn nổi lên như biểu tượng cho quyền lợi và vị thế của phụ nữ trong cơ cấu xã hội tộc người. Điều ấy rất quan trọng, đó là biểu tượng của tấm thịnh tình và sự tôn trọng mà nhà chồng dành cho cô gái làm dâu.

Anh hiểu về cá tính tộc người và cá tính Mông tộc như thế nào?

- Đứng trước một sự kiện xã hội nào đó, nhất là những sự kiện mang tính biến cố, mỗi một tộc người lại có một cách thức lựa chọn, tâm thế ứng xử không giống nhau. Ví dụ, trong phong trào hạ sơn do nhà nước khuyến khích trong thế kỷ trước, những tộc người ở giữa núi như Dao chấp nhận hạ sơn, người Mông thì không thế, người Mông vẫn sinh sống trên các đỉnh núi.

Trong chính sách định cư, nhiều tộc chấp nhận và thích nghi, nhưng Mông ở một bộ phận rất lớn vẫn không chọn định cư mà chọn di cư “như một thói quen”. Trong cuộc sống, những mâu thuẫn nhỏ nhặt là bình thường với các tộc khác nhưng với Mông lại trở nên hết sức nghiêm trọng và vì thế chết vì tự vẫn là phổ biến trong xã hội Mông… Những khác biệt ấy, trong ứng xử tâm lý văn hóa đã qui định cá tính tộc người. Ở đây, tâm lý đã thành văn hóa rọi phóng ra ngoài. Số phận mỗi tộc người, ngoài các yếu tố ngoại quan, còn là sự qui định chính bởi yếu tố nội quan của cá tính tập thể đặc thù ấy.

Bộ từ khóa nhằm xác lập “cá tính Mông” trong lịch sử từ phân tích của tôi sẽ gồm: tâm thức lưu vong /di dân /mồ côi, ám ảnh Hán/ tự vẫn/nổi loạn/tự do/mộng mơ/tình yêu/tự trị tộc người/quyền lực miền núi. Bộ từ khóa này chỉ đến, chỉ có được sau những sống trải của tôi khi đi vào văn chương - văn hóa Mông.

Anh nghĩ gì về người Mông trong bức tranh quốc gia đa dân tộc Việt Nam?

- Ngày nay, người Mông là một trong nhiều tộc người của quốc gia Việt Nam đa tộc người và họ cũng như mọi tộc người ở Việt Nam hiện đại đang phải đối diện và biến đổi nhanh chóng bởi toàn cầu hóa. Nhưng trong quá khứ, người Mông từng là một trong vài mắt xích quan trọng hơn cả của miền núi phía bắc Việt Nam. Giữa hỗn độn của bức tranh tộc người, nhóm tộc người miền núi phía Bắc Việt Nam tồn tại đến cuối thế kỷ XIX hình thành hai lớp quyền lực chủ đạo. Lớp quyền lực vành đai núi thấp Mường - Thái (Tây Bắc) và Tày (Đông Bắc) là vành đai quyền lực nổi trội, sức mạnh của họ bao trùm toàn bộ các vùng núi.

(Ảnh minh họa: Internet)

Trong đấy, vượt thoát trên các đỉnh núi, chung cho cả của Đông Bắc và Tây Bắc, bởi sự kiêu hùng, thiện chiến và đông đảo, lại hình thành riêng lớp quyền lực của người Mông - quyền lực đỉnh núi. Các lớp quyền lực này tồn tại mối quan hệ liên đới phức tạp với nhau và với quyền lực của người Việt ở đồng bằng. Nước Việt Nam cổ truyền, nhìn từ núi, là một thực thể liên kết các trung tâm quyền lực chính trị - quân sự tộc người, trong đấy, sức mạnh người Việt ở các châu thổ là sức mạnh đã kiến tạo dân tộc - quốc gia.

Cám ơn anh về cuộc trò chuyện này!

Nguyễn Mạnh Tiến, quê quán Núi Đọ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Hoạt động dân tộc tự do, nghiên cứu ngữ văn tộc người thiểu số. Hiện làm việc tại Viện Văn học. “Những đỉnh núi du ca - Một lối tìm về cá tính H’Mông” do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành cuối năm 2014 là kết quả của hơn 3 năm liên tục tiến hành thực địa của nhà nghiên cứu độc lập Nguyễn Mạnh Tiến ở miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó, trọng tâm của hoạt động thực địa là ở cao nguyên đá Đồng Văn. Cuốn sách là một nghiên cứu khá đầy đủ về người Mông, đồng thời mở rộng phạm vi bàn luận ra những vấn đề liên quan đến các xã hội miền núi trong bối cảnh phát triển của lịch sử.

Trên nền tảng nghiên cứu tri thức liên ngành: ngữ văn, địa lý – nhân văn, phân tích tâm lý, sử học và dân tộc học, cuốn sách hướng đến các đặc điểm nền tảng làm thành tâm lý tập thể tộc người Mông. Trong đó, nghiên cứu và phân tích kho tàng văn chương truyền khẩu Mông – với vai trò là sự kiện xã hội tổng thể - đã giúp tác giả phát hiện và xây dựng bộ từ khoá (key words) nhằm xác lập cá tính Mông. Từ bộ từ khoá này, cá tính Mông được kiến tạo, giúp lý giải các động cơ sâu xa ẩn giấu đằng sau hành động, thói quen tập thể của người Mông từ quá khứ đến hiện đại, góp vào giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người ở miền núi phía Bắc Việt Nam từng gây nhiều chú ý nhưng vẫn chứa đựng nhiều bí ẩn và phải đương đầu với nhiều thách thức ngày nay.